Doanh nghiệp đối mặt với thách thức duy trì sản xuất, giữ chân lao động
70,6% doanh nghiệp gặp khó khăn trong “đảm bảo khả năng cạnh tranh”, 39,9% doanh nghiệp khó “tuyển dụng lao động”, 34% chật vât “thực hiện các hợp đồng đã ký kết”, 28,8% doanh nghiệp lo duy trì được sản xuất kinh doanh...
Ngày 24/9, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố “Kết quả khảo sát về những ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến các vấn đề lao động việc làm tại doanh nghiệp”.
Khảo sát được thực hiện với khoảng 500 doanh nghiệp thuộc các thành phần, ngành nghề, quy mô khác nhau ở cả 29 tỉnh, thành phố của 3 miền Bắc, Trung và Nam.
DOANH NGHIỆP THU HẸP SẢN XUẤT CAO GẤP 2 LẦN MỞ RỘNG
Kết quả cho thấy, đến tháng 7/2021, do dịch bệnh bùng phát mạnh, sản xuất gặp nhiều khó khăn nên số doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất tăng lên, tăng quy mô sản xuất giảm xuống và điều này xảy ra với tất cả các ngành. Thậm chí, do gặp khó khăn không thể vượt qua, nhiều doanh nghiệp phải dừng sản xuất.
Cụ thể, so với năm 2019 (trước đại dịch Covid 19), tại thời điểm tháng 6/2021, có 37,9% số doanh nghiệp mở rộng sản xuất, còn lại hơn 62% là giữ nguyên hoặc thu hẹp sản xuất, trong đó 31,4% doanh nghiệp đã thu hẹp sản xuất.
Tỷ lệ doanh nghiệp thu hẹp sản xuất nhiều nhất xảy ra trong ngành xây dựng (54,55%) và công nghiệp (40%), trong đó có chế biến chế tạo (37,2%).
Trong khi số doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất trong ngành xây dựng cao gấp 6 lần số doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thì ngược lại, trong ngành nông lâm ngư nghiệp lại có đến 62,9% số doanh nghiệp mở rộng sản xuất, cao hơn 3 lần (17,14%) số doanh nghiệp thu hẹp sản xuất.
Báo cáo nhận định, tỷ lệ doanh nghiệp mở rộng sản xuất của ngành nông lâm ngư nghiệp cao so với các ngành khác có thể do mức độ ảnh hưởng của đại dịch đến ngành này không lớn như đối với các ngành khác.
Tuy nhiên, so với năm 2020, đến tháng 6/2021 chỉ có 21,6% số doanh nghiệp mở rộng sản xuất, trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp thu hẹp sản xuất kinh doanh là 40,5%, cao gần gấp 2 lần số doanh nghiệp mở rộng sản xuất và gần 38% số doanh nghiệp không thay đổi quy mô sản xuất, cũng cao hơn khi so với năm 2019.
Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất cao nhất là trong các ngành công nghiệp, kể cả công nghiệp chế biến, tương ứng là 52,73% và 51,2%, và tăng lên đáng kể khi so sánh với năm 2019.
Điều này dễ thấy do sang năm 2021 dịch bệnh lan nhanh, tác động mạnh hơn, gây khó khăn nhiều hơn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
So với năm 2020, tình hình thu hẹp sản xuất xảy ra nhiều với các nhóm doanh nghiệp vừa và lớn. Cụ thể, 52% với nhóm doanh nghiệp có 100-200 lao động; 41,4% với nhóm 200-500 lao động và 33,33% với nhóm từ 500 lao động trở lên.
Nhóm các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm ở các thị trường châu Á và tiêu thụ nội địa có tỷ lệ doanh nghiệp thu hẹp sản xuất cao nhất, tương ứng là 56,25% và 40,82%.
Nếu so giữa các nhóm doanh nghiệp theo hình thức sở hữu, DNNN là nhóm có tỷ lệ thu hẹp sản xuất cao nhất (66,7%). Nhóm các doanh nghiệp có tỷ lệ nguyên vật liệu nhập khẩu cao hơn thì có tỷ lệ doanh nghiệp thu hẹp sản xuất cao hơn.
Chứng tỏ sự phụ thuộc vào nguồn cung nguyên vật liệu từ nước ngoài đang ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Khi so sánh với năm 2020, tỷ lệ doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất là 44,64% ở miền Bắc, 39,71% ở miền Trung và 34,5% ở miền Nam.
Như vậy, có thể thấy sang năm 2021 xu hướng sản xuất tiếp tục chậm lại và điều này xảy ra với các doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành ở cả 3 miền Bắc Trung và Nam.
Trong đó, thu hẹp sản xuất xảy ra nhiều hơn đối với các DNNN (58,33%), các doanh nghiệp phục vụ thị trường trong nước (33,67%) và các doanh nghiệp xuất khẩu đi các thị trường châu Á (43,75%).
56% DOANH NGHIỆP PHẢI CẮT GIẢM LAO ĐỘNG
Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp để ứng phó với dịch bệnh, “3 tại chỗ”, “1 cung đường 2 điểm đến”, “luồng xanh”, thực hiện giãn cách,… cùng với giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và phí vận chuyển tăng cao… đẩy chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng lên đáng kể làm cho nguồn lực bị cạn kiệt.
Những khó khăn trên khiến gần 56% số doanh nghiệp phải cắt giảm lao động ở các mức độ khác nhau, trong đó hơn 1/5 số doanh nghiệp giảm lao động từ 10-20%.
Xây dựng và dịch vụ là hai ngành có số DN giảm lao động nhiều hơn so với các ngành khác, tương ứng là (63,67%) và 59,61%).
Tỷ lệ DN giảm lao động cao nhất là nhóm các doanh nghiệp tư nhân (gần 58,73%) và các DN nhỏ (71,67% với các DN dưới 50 lao động và 55,55% với các DN có 50-100 lao động). Tỷ lệ DN giảm lao động thấp nhất là nhóm các DN FDI (40%).
Chính vì vậy, báo cáo cũng chỉ ra những khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp đang gặp phải vẫn là “đảm bảo khả năng cạnh tranh” kể cả trong bối cảnh dịch bệnh, với 70,6%; doanh nghiệp khó “tuyển dụng lao động” (39,9%); “thực hiện các hợp đồng đã ký kết” (34%) và “đổi mới công nghệ” (33,33%); 28,8% doanh nghiệp duy trì được sản xuất kinh doanh.
Nếu xét theo quy mô doanh nghiệp, 75% doanh nghiệp nhỏ (dưới 50 lao động) gặp khó khăn lớn nhất là về “duy trì được sản xuất”, 52,1% “đảm bảo khả năng cạnh tranh”; 50% “giữ được lao động”.
Ngược lại, 61,1% doanh nghiệp lớn (trên 500 lao động) khó khăn lớn nhất là về “nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào”; 67,5% khó “duy trì được sản xuất kinh doanh”; 50% khó “tuyển dụng lao động”.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, doanh nghiệp càng sử dụng nhiều nguyên vật liệu nhập khẩu thì càng gặp khó khăn hơn về vấn đề “đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào”.
Lý giải điều này khảo sát cho rằng, đại dịch đã làm gián đoạn các chuỗi cung ứng, đình trệ vận chuyển và ảnh hưởng đến việc nhâp khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp.
Báo cáo cũng đánh giá, doanh nghiệp đứng trước nguy cơ mất khách hàng và mất cơ hội ký kết các hợp đồng mới do nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp (hoặc đóng cửa) sản xuất, chi phí quá cao nên phải quyết định tạm dừng sản xuất, không hoàn thành các đơn hàng hiện có mà nhiều doanh nghiệp đã ký đến hết năm 2021, thậm chí đến quý 1/2022.
Trong khi đó, phạm vi và mức độ tác động của các gói hỗ trợ về thuế, tín dụng và an sinh xã hội đối với các doanh nghiệp và người lao động còn rất hạn chế.
Chỉ 35,29% số doanh nghiệp tiếp cận được với gói hỗ trợ về thuế, 30,7% số doanh nghiệp tiếp cận được với gói hỗ trợ về tín dụng và 23,5% số doanh nghiệp tiếp cận được với gói hỗ trợ về an sinh xã hội.
Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được với các gói hỗ trợ còn thấp, mức độ đáp ứng không cao, quy trình thủ tục phức tạp, nhiều điều kiện khó đáp ứng, giải ngân chậm, kém hiệu quả và thực sự là không hỗ trợ được nhiều cho doanh nghiệp.