Việt Nam tăng 2 bậc Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu, có 3 chỉ số đứng đầu thế giới
Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Đáng chú ý, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số Nhập khẩu công nghệ cao, Xuất khẩu công nghệ cao và Xuất khẩu hàng hóa sáng tạo...
Chiều tối ngày 26/9/2024, vào 18h30 theo giờ Việt nam, tại Geneva (Thụy Sĩ), Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index- GII) 2024.
3 CHỈ SỐ ĐỨNG ĐẦU THẾ GIỚI
Cụ thể, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 57 lên 53. Đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển của doanh nghiệp).
Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với 2023, từ vị trí 40 lên 36. Đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo.
Việt Nam duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quốc gia thu nhập trung bình thấp xếp trên Việt Nam là Ấn Độ với thứ hạng 39.
Ngoài ra, có 5 quốc gia có thu nhập trung bình cao xếp trên Việt Nam (Trung Quốc xếp hạng 11, Malaysia xếp hạng 33, Thổ Nhĩ Kỳ xếp hạng 37, Bulgari xếp hạng 38 và Thái Lan xếp hạng 41). Còn lại tất cả các quốc gia xếp trên Việt Nam đều là các quốc gia có nền công nghiệp phát triển, thuộc nhóm thu nhập cao. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam đứng thứ 4 (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan).
Trong Báo cáo GII 2024, Việt Nam được WIPO ghi nhận là một trong 8 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhiều nhất tính từ năm 2013 (gồm Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Iran và Marocco). Việt Nam cũng là một trong 3 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 14 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ, Moldova và Việt Nam).
Trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo. Điểm số các trụ cột của Việt Nam cao hơn các quốc gia ở nhóm thu nhập trung bình thấp và thậm chí còn cao hơn nhóm thu nhập trung bình cao, ngoại trừ trụ cột 2 về nguồn nhân lực và nghiên cứu.
Đáng chú ý, năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số Nhập khẩu công nghệ cao, Xuất khẩu công nghệ cao và Xuất khẩu hàng hóa sáng tạo.
NHIỀU CHỈ SỐ LÀ ĐIỂM MẠNH CỦA VIỆT NAM CẢI THIỆN TÍCH CỰC
Có 3 chỉ số thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là Tốc độ tăng năng suất lao động (xếp hạng 3); Số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (xếp hạng 7) và Phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển (xếp hạng 9).
Về cơ sở hạ tầng năm 2024, Việt Nam xếp hạng 56, tăng 14 bậc từ vị trí 70 năm 2023. Kết quả này đạt được do WIPO thay đổi phương pháp. Theo đó đã bỏ chỉ số Chất lượng môi trường (theo đánh giá của Đại học Yale) mà Việt Nam luôn có thứ hạng thấp trong nhiều năm qua (năm 2023 xếp hạng 130), thay vào đó sử dụng chỉ số mới là Tỷ lệ sử dụng nguồn năng lượng phát thải carbon thấp (%). Chỉ số này trong GII 2024 Việt Nam đạt 26,8%, xếp hạng 46.
Hai chỉ số về năng lượng khác ở trụ cột này cũng cải thiện tích cực là chỉ số Sản lượng điện, GWh/triệu dân tăng 5 bậc từ thứ hạng 75 năm 2023 lên 70 và chỉ số GDP/đơn vị năng lượng sử dụng tăng 4 bậc từ thứ hạng 72 lên 68.
Trình độ phát triển của thị trường Việt Nam xếp hạng 43, tăng 6 bậc từ hạng 49 năm 2023. Trong trụ cột này, chỉ số cải thiện tích cực nhất là Số thương vụ các nhà đầu tư mạo hiểm đã thực hiện/PPP$GDP (GDP theo sức mua tương đương) với mức tăng 10 bậc so với năm 2023, hiện xếp 50. Chỉ số Tín dụng nội địa cho khu vực tư nhân, % GDP tăng 6 bậc, lên vị trí 15. Chỉ số này được WIPO coi là một trong những điểm mạnh của Việt Nam.
Ngoài ra, có hai chỉ số cải thiện 03 bậc là Giá trị vốn hóa các công ty niêm yết (% GDP) từ vị trí 36 lên 33; chỉ số Số thương vụ nhận được vốn đầu tư mạo hiểm/tỉ PPP$GDP tiếp tục xu hướng tăng, từ thứ 54 năm 2021 lên 48 năm 2022 và 47 năm 2023, năm 2024 tiếp tục tăng 3 bậc lên vị trí 44.
Về trình độ phát triển của doanh nghiệp, năm 2024 Việt Nam xếp hạng 46, tăng 03 bậc so với năm 2023. Trong đó điểm mạnh nhất vẫn là chỉ số Nhập khẩu công nghệ cao (% tổng giao dịch thương mại), tăng 3 bậc, trở về vị trí dẫn đầu thế giới (hạng 1). Chỉ số Trả tiền bản quyền, % tổng giao dịch thương mại tăng 5 bậc từ thứ hạng 85 năm 2023 lên 80.
Ngoài ra, các chỉ số trong nhóm chỉ số về Liên kết sáng tạo đều có sự cải thiện tích cực, đóng góp vào sự tăng hạng của nhóm chỉ số này từ hạng 43 năm 2023 tăng 2 bậc lên 41.
Về đầu ra Sản phẩm tri thức và công nghệ năm 2024 Việt Nam xếp hạng 44, tăng 4 bậc so với năm 2023. Trong đó, hai chỉ số tiếp tục là điểm mạnh của Việt Nam gồm: chỉ số Xuất khẩu công nghệ cao (% tổng giao dịch thương mại) đã đứng đầu thế giới sau khi xếp hạng 3 năm 2023; chỉ số Tốc độ tăng năng suất lao động (GDP/người lao động) xếp hạng 3, tăng 1 bậc so với năm 2023.
Ngoài ra, trụ cột này có một số chỉ số có cải thiện đáng ghi nhận như: Chỉ số định giá các công ty kỳ lân (% GDP) tăng 2 bậc, xếp hạng 31. Việt Nam hiện có 2 kỳ lân được WIPO ghi nhận, giá trị được định giá chiếm 1,1% GDP;
Chỉ số Sản lượng ngành công nghệ cao (% tổng sản lượng sản xuất) tăng 10 bậc, xếp hạng 28. Sản lượng sản phẩm ngành công nghệ cao của Việt Nam chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng sản lượng sản xuất. Chỉ số này năm 2022 đạt 29,9%, xếp hạng 44, năm 2024 đạt 38.3%, xếp hạng 28. Chỉ số Xuất khẩu dịch vụ ICT dù thứ hạng còn thấp nhưng đã tăng 20 bậc, từ 115 năm 2023 lên 95.
Báo cáo cũng chỉ ra một số chưa cải thiện hoặc còn ở thứ hạng thấp cần tiếp tục quan tâm.
Hằng năm, WIPO công bố Báo cáo Chỉ số GII. Đây là một bộ công cụ đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia có uy tín trên thế giới, phản ánh mô hình phát triển kinh tế xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của các quốc gia.
Qua đó, các quốc gia thấy được bức tranh tổng thể cũng như các điểm mạnh, điểm yếu của mình. GII hiện được chính phủ nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ tham chiếu quan trọng cho quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cũng như để xây dựng các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thời gian qua, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số này như một trong các công cụ quản lí điều hành quan trọng và đã phân công các bộ, cơ quan, địa phương cùng có trách nhiệm cải thiện chỉ số. Bộ Khoa học và công nghệ được giao nhiệm vụ là đầu mối theo dõi, điều phối chung. Từ năm 2017 đến nay, chỉ số GII của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên 46 năm 2023.