Việt Nam cần thực hiện ngay các giải pháp hỗ trợ tăng trưởng trung hạn
Để bước qua thách thức và tăng trưởng, Việt Nam cần bắt tay hành động ngay 4 giải pháp, đó là: chính sách tài khóa; chính sách tiền tệ; cải cách để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong trung hạn và củng cố niềm tin vào cải cách...
Chia sẻ tại toạ đàm Kinh tế vĩ mô giữa năm 2023 với chủ đề: “Phục hồi tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh mới”, bà Dorsati Madani, Chuyên gia Kinh tế cao cấp Ngân hàng thế giới (WB), nhận định rằng nền kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với rủi ro đa dạng và chồng chéo, như: căng thẳng tài chính, địa chính trị, thiên tai; tiếp tục thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia, an ninh lương thực và năng lượng, triển vọng tăng trưởng dài hạn yếu hơn; lạm phát cao kéo dài, căng thẳng xã hội, mạng lưới kinh tế toàn cầu phân mảnh…
KINH TẾ NỬA CUỐI NĂM 2023 VẪN CHƯA SÁNG
Những động lực giúp phục hồi kinh tế toàn cầu những tháng đầu năm 2023 dự kiến sẽ suy giảm trong các tháng cuối năm. Điều này cho thấy hoạt động kinh tế toàn cầu cả năm 2023 sẽ chậm lại, phản ánh sự giảm tốc rõ rệt ở các nền kinh tế phát triển.
Tăng trưởng toàn cầu được WB dự báo đạt 2,1% trong năm 2023 và đạt 2,4% trong năm 2024.
Cường quốc Hoa Kỳ dự báo mức tăng trưởng năm 2023 đạt 1,1%, sang năm 2024 ước đạt 0,8%. Khu vực đồng Euro dự báo năm nay tăng trưởng chỉ đạt 0,4%, sang năm 2024 tăng lên 1,3%.
Trong bối cảnh tổng cầu giảm... đã tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Đà tăng trưởng của Việt Nam đã chậm lại đáng kể. Hai quý đầu năm 2023 tốc độ tăng trưởng chậm. Diễn biến tăng trưởng không giống giai đoạn tiền Covid và trong thời gian Covid-19
“Tăng trưởng chậm xuất phát từ phía tổng cầu. Xuất, nhập khẩu giảm mạnh. Cả tiêu dùng cuối cùng và đầu tư đều đang bộc lộ những hạn chế”, bà Dorsati Madani nhấn mạnh.
Theo đại diện WB, nhu cầu đối với hàng xuất khẩu giảm đang đè nặng lên nền kinh tế. Nhiều khó khăn, thách thức đang ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo sang Mỹ, EU và Trung Quốc. Trong khi đó, hoạt động liên quan đến xuất khẩu chiếm gần một nửa giá trị gia tăng ở Việt Nam, đẩy nền kinh tế phải đối diện với thách thức suy thoái toàn cầu.
Bên cạnh đó, tăng trưởng toàn cầu chậm lại, đi kèm với gia tăng bất định cũng đang tác động trực tiếp đến tổng cầu trong nước. Đầu tư khu vực tư nhân đã giảm mạnh trong nửa đầu năm 2023. Tổng vốn đầu tư (theo giá trị danh nghĩa) tăng 3,7% trong quý 1/2023 và 5,5% trong quý 2/2023, con số này thấp hơn nhiều so với năm 2022 hoặc thời kỳ trước Covid.
"Tăng trưởng doanh số bán lẻ trong nước của Việt Nam gần đây đã giảm xuống dưới mức trước Covid", bà Dorsati Madani nhận định, đồng thời cho biết theo dự báo hiện tại của WB, tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đạt dưới 5% trong năm 2023 và dần phục hồi đến khoảng 5,5%-6% vào năm 2024.
Riêng nửa sau của năm 2023, WB dự báo, tăng trưởng toàn cầu trong năm 2023 giảm tốc, một số hàng xuất khẩu tăng có thể tăng nhẹ trên nền cơ sở rất thấp, đặc biệt là trong quý 4. Bên cạnh đó, có một số hỗ trợ thông qua chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ thích ứng vẫn tiếp tục. Tiêu dùng cuối cùng thoát đáy và đầu tư tư nhân phục hồi nhẹ.
WB dự báo, sang năm 2024, nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng nhẹ. Vì thế, xuất khẩu có phần khởi sắc, thể hiện ở sự phục hồi nhẹ của đầu tư tư nhân trong nước. Chính sách tài khóa tiếp tục mở rộng, chính sách tiền tệ thích ứng vẫn tiếp tục.
HÀNH ĐỘNG NGAY 4 GIẢI PHÁP
Để bước qua thách thức và tăng trưởng, bà Dorsati Madani cho rằng Việt Nam cần hành động ngay 4 giải pháp, đó là: chính sách tài khóa; chính sách tiền tệ; cải cách để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong trung hạn và củng cố niềm tin vào cải cách.
Đối với chính sách tài khóa, theo đại diện WB, Việt Nam vẫn còn dư địa chính sách tài khóa, nhưng quá trình thực thi gặp nhiều thách thức. Việt Nam cần tăng đầu tư công theo kế hoạch, bao gồm gói hỗ trợ phục hồi kinh tế giai đoạn 2022-2023 (1,8% GDP). Bởi tính đến cuối tháng 6/2023, tỷ lệ giải ngân vốn ước tính là 28% (Bộ TC), đây là mức thấp.
Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, cải thiện quy trình thủ tục đầu tư và việc xác định mục tiêu và chất lượng thực hiện cũng là vấn đề Việt Nam cần tính toán, bởi theo WB, chiến lược phát triển không gian quốc gia đã được Chính phủ thông qua để ưu tiên những hoạt động đầu tư quan trọng, xương sống vào các vùng quan trọng, khu vực tăng trưởng.
Đơn cử, kể từ năm 2016 không có dự án nào đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền tải và lưới điện. Đây là một ví dụ rõ ràng về việc Việt Nam đang tự hủy hoại tiềm năng tăng trưởng của mình.
Giải pháp cho đầu tư công không đủ, theo WB, Chính phủ cần hỗ trợ người lao động và các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi cú sốc liên quan đến suy giảm kinh tế toàn cầu.
Về chính sách tiền tệ, chuyên gia WB cho rằng hiệu lực những chính sách còn hạn chế. Dư địa của chính sách tiền tệ bị hạn chế và khả năng truyền dẫn yếu. Nhu cầu tín dụng yếu dẫn tới đầu tư thấp, bất ổn cao.
Các biện pháp từ phía cung, chẳng hạn như tiếp tục nới lỏng và các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, có thể sẽ kém hiệu quả hơn và rủi ro hơn vì lãi suất toàn cầu có khả năng duy trì ở mức cao trong thời gian dài hơn. Chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và thế giới có thể tăng lên, gây áp lực lên tỷ giá.
Một vấn đề khác, WB cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng cải cách để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong trung hạn. Những biện pháp ứng phó khủng hoảng hiện nay của Việt Nam đã đáp ứng các điều kiện nhưng có thể làm được nhiều hơn nữa.
Việt Nam tháo gỡ khó khăn trên thị trường tín dụng, kích thích tăng trưởng bằng 4 đợt giảm lãi suất kể từ tháng 3/2023, đồng thời nới lỏng các hạn chế về thanh khoản, thực hiện các biện pháp giãn nợ và tái cơ cấu… nhưng tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi tăng (trên 100%), gia tăng mối quan ngại về chênh lệch kỳ hạn và chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Do đó, Việt Nam cần cải cách cơ cấu trong trung hạn như: Củng cố hệ số an toàn vốn của ngân hàng; tăng cường các khuôn khổ thể chế để giám sát cẩn trọng, can thiệp sớm, xử lý ngân hàng và quản lý khủng hoảng; tăng cường khung pháp lý về xử lý ngân hàng yếu kém. “Đặc biệt, việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các hạn chế mang tính cơ cấu”, bà Dorsati Madani gợi ý.
Ngoài ra, cần tăng đầu tư vào vốn con người/kỹ năng; nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý đầu tư công; nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu toàn cầu; xanh hóa sản xuất thông qua thuế carbon và các công cụ tài khóa khác; xanh hóa tiêu dùng thông qua các ưu đãi tài chính…
Cuối cùng, theo bà Dorsati Madani, Việt Nam cần củng cố niềm tin vào công cuộc cải cách này thông qua cải cách cơ cấu để nâng cao năng lực cạnh tranh: Cải thiện môi trường kinh doanh, khởi động lại chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy tài chính toàn diện, tạo điều kiện tiếp thu kỹ năng theo nhu cầu của thị trường, nâng cao khả năng thích ứng trung hạn của hàng xuất khẩu.
Mặt khác, cải cách cơ cấu coi ngành dịch vụ là động lực tăng trưởng. Vì khu vực dịch vụ đóng góp trung bình hơn 50% vào tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2010- 2019.