Tín hiệu bất ổn từ nhu cầu mua sắm giảm sút ở Mỹ và châu Âu
Thời gian qua, các doanh nghiệp phải ứng phó với sự gián đoạn và đảo lộn trong chuỗi cung ứng. Giờ đây, họ có thể phải xoay sở với sự suy giảm nhu cầu, nhất là ở các nền kinh tế phát triển...
HiBrew - một công ty sản xuất máy pha cà phê ở Quảng Đông, Trung Quốc - đang chứng kiến doanh số tại thị trường châu Âu giảm sút sau khi tăng trưởng ấn tượng trong năm ngoái, thời điểm vốn nhu cầu bị dồn nén trên toàn cầu trong đại dịch Covid-19 bùng nổ trở lại đối với hàng tiêu dùng từ Trung Quốc.
Năm nay, số máy pha cà phê mà HiBrew bán được sang châu Âu đã giảm khoảng 30-40%, trái ngược hoàn toàn với sự tăng trưởng doanh số 70% đạt được vào năm ngoái - theo Tổng giám đốc Zeng Qiuping. Chi phí sinh hoạt gia tăng ở Mỹ và châu Âu, cùng với việc các nhà nhập khẩu chờ khả năng Mỹ-Trung hạ thuế quan đối với hàng hoá của nhau, đã dẫn tới sự sụt giảm này, ông Zeng lý giải trong cuộc trao đổi với hãng tin CNBC.
Giới phân tích cho biết thêm rằng giá cước vận tải đã bắt đầu giảm xuống sau khi tăng cao kỷ lục trong thời gian đại dịch. Đây là một tín hiệu cho thấy nhu cầu đối với các dịch vụ hậu cần bắt đầu nguội bớt. Sự giảm giá cước vận tải là một tin tốt đối với các nhà xuất-nhập khẩu, nhưng cũng đồng thời là một dấu hiệu cảnh báo khác.
TÍN HIỆU CẢNH BÁO TỪ GIÁ CƯỚC VẬN TẢI
Thời gian qua, các doanh nghiệp phải ứng phó với sự gián đoạn và đảo lộn trong chuỗi cung ứng. Giờ đây, họ có thể phải xoay sở với sự suy giảm nhu cầu, nhất là ở các nền kinh tế phát triển. Sự dịch chuyển này phản ánh khả năng xảy ra suy thoái kinh tế - giới phân tích cảnh báo.
Giá cước vận tải biển giữa Trung Quốc với vùng bờ Đông và bờ Tây của Mỹ đã giảm nhiều – theo nhà sáng lập Shabsie Levy của Shifl, một nền tảng kỹ thuật số về chuỗi cung ứng. Theo ông Levy, nguyên nhân ở đây là nhu cầu của người tiêu dùng ở Mỹ giảm xuống và nhiều hãng bán lẻ ở Mỹ đang có trong tay lượng hàng tồn kho lớn. Ông cũng nhấn mạnh rằng cước vận tải có mối liên hệ mật thiết với ngành bán lẻ, vì vận tải biển là phương thức chiếm hơn một nửa số hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ.
“Nhu cầu mua sắm giảm xuống đã kéo tụt cước vận tải biển và điều này sẽ tiếp tục. Tôi chưa gọi sự suy giảm nhu cầu này là một cuộc suy thoái, nhưng mọi thứ có vẻ đang diễn biến theo chiều hướng xấu”, ông nhận định. “Một số khách hàng của chúng tôi đang chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ về doanh số, nhất là những mặt hàng có giá trị cao và không phải là sản phẩm thiết yếu.
Trong đại dịch, giá cước vận tải biển tăng vọt do gián đoạn chuỗi cung ứng và phong toả. Cước vận tải biển giữa Trung Quốc và Mỹ tăng gấp gần 3,5 lần trong thời gian từ tháng 1/2020-5/2022, theo dữ liệu từ Shifl. Sự gia tăng chi phí hậu cần đã được hấp thụ bởi các nhà sản xuất hoặc đẩy về phía người tiêu dùng, khiến cho lạm phát tăng lên.
Nhưng ở thời điểm hiện tại, số lượng đơn hàng mới từ Mỹ đã chậm lại và những công ty như Samsung US – nhà nhập khẩu lớn thứ 7 ở Mỹ - đã giảm một nửa đơn hàng mua dự trữ cho tháng 7, theo Shifl. Nhà nhập khẩu lớn thứ hai của Mỹ là hãng bán lẻ Target cũng công bố ý định cắt giảm đơn hàng mua dự trữ vì lượng hàng tồn kho đang ngày càng lớn.
Ngay cả sau khi Thượng Hải dỡ phong toả, các hãng vận tải cũng chỉ nhận được phản hồi khá hời hợt từ các nhà nhập khẩu, ông Levy cho hay.
Chỉ số World Container Index của Drewy đo giá cước vận tải container kích thước 40 foot trên các tuyến chính đã giảm 30% trong thời gian từ tháng 9 đến nay. Cước vận tải container trên các tuyến lớn như từ Thượng Hải tới New York hay từ Thượng Hải tới Rotterdam đã giảm tới 24% so với cùng kỳ năm ngoái.
“Hệ thống phân phối của Mỹ đang dư thừa hàng hoá. Lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp trong tháng 4 tăng gần 18% so với cùng kỳ năm ngoái”, chuyên gia kinh tế độc lập Marc Levinson cho biết trong một bài post trên LinkedIn.
“Lý do dẫn tới sự dư thừa hàng tồn kho là gì? Đơn giản là người tiêu dùng đã dừng việc chi tiêu thoải mái. Khi các thói quen mua sắm quay trở lại bình thường như trước đại dịch, lạm phát khiến cho sức mua bị bào mòn, nhu cầu đối với hàng hoá tiêu dùng cũng chững lại”, ông Levinson phân tích, nói thêm rằng xu hướng này đã trở nên rõ nét ở châu Âu, Bắc Mỹ và một số khu vực của châu Á.
GIỚI CHUYÊN GIA BI QUAN
Các chuyên gia nhận thấy nhiều trở ngại đối với nhu cầu và tiêu dùng trong thời gian tới. Khi các hạng mục chi tiêu thiết yếu như ăn uống và điện nước tăng lên, người tiêu dùng ở Mỹ sẽ không còn nhiều ngân sách để chi tiêu, đặc biệt là tiêu vào những sản phẩm - dịch vụ không thiết yếu, theo chuyên gia kinh tế trưởng Nathan Sheets của Citibank.
“Tôi có cảm giác là người tiêu dùng, nhất là người tiêu dùng thuộc nhóm có thu nhập thấp hơn, đang bắt đầu hạn chế chi tiêu. Chúng tôi nhận thấy điều này ở những mặt hàng và dịch vụ không phải là thiết yếu”, ông Sheets nói.
Đã có những dấu hiệu cho thấy chi tiêu vào hàng hoá đang ngừng tăng tại nhiều nền kinh tế phát triển – chuyên gia kinh tế trưởng toàn cầu Jennifer McKeown của Capital Economics nhận định trong một báo cáo hồi cuối tháng 6. Theo bà McKeown, người tiêu dùng vẫn chi vào những dịch vụ như ăn uống, nhưng nhu cầu hàng hoá “đang bị ảnh hưởng bất lợi bởi giá cả tăng cao và lãi suất tăng”.
Chiến lược gia trưởng Yung-Yu Ma của BMO Wealth Management đồng tình với nhận định này. Ông Ma nói rằng nhu cầu hàng hoá đang đối mặt với ba thách thức lớn gồm sự dịch chuyển của người tiêu dùng về phía dịch vụ, lạm phát bào mòn sức mua, và mối lo suy thoái kinh tế.
“Nếu kinh tế không giảm tốc nhiều hoặc không xảy ra suy thoái, có thể đến mùa xuân sang năm, nhu cầu và nguồn cung sẽ trở nên cân đối hơn”, ông Ma nhận định. “Một cuộc suy thoái kinh tế toàn phần sẽ khiến quá trình điều chỉnh lượng hàng tồn kho càng kéo dài hơn”.
Trong một báo cáo khác, chuyên gia kinh tế Ariane Curtis của Capital Economics nói rằng lãi suất tăng lên cũng đặt ra những thách thức lớn. “Nhu cầu yếu đi trên toàn cầu đối với hàng hoá - do quá trình dần bình thường hoá các xu hướng chi tiêu, do thu nhập thực tế giảm đi, và do lãi suất tăng - sẽ đặt ra trở ngại đối với thương mại thế giới trong những tháng tới”, bà Curtis nhận định.
Tuy nhiên, vị chuyên gia không cho rằng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái. “Chúng tôi sự giảm tốc của thương mại hoặc sự bình thường hoá của nhu cầu sẽ chỉ khiến tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới giảm xuống thôi”, bà nói. “Mọi chuyện sẽ không trở lại được tình trạng như trước Covid, bởi chi phí sinh hoạt đắt đỏ hơn và sự khan hiếm nguồn cung vẫn diễn ra, nhưng chắc là sẽ không có suy thoái, chí ít là ở hầu hết các quốc gia”.