Phát triển ngành công nghiệp năng lượng: Cần chính sách ưu tiên, đột phá
Nhu cầu năng lượng đang phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, ngành công nghiệp năng lượng Việt Nam cũng đang gặp một số vấn đề như: nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu, nhiều dự án điện bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch…
Trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao Công nghiệp 4.0 năm 2023, sáng 14/6, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức hội thảo chuyên đề 3 với chủ đề: “Xu hướng công nghệ và giải pháp phát triển ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2030, tầm nhìn 2045”.
NHIỀU DỰ ÁN ĐIỆN CHẬM SO VỚI QUY HOẠCH
Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Đức Hiển - Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cho biết Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của BCH Trung ương khóa XIII về "Tiếp tục đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045“đã xác định công nghiệp năng lượng là một trong 6 ngành nền tảng, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, công nghiệp năng lượng mới.
Nghị quyết cũng đề ra nhiều hướng để phát triển những ngành công việc năng lượng, như định hướng về khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất thiết bị năng lượng sạch, tái tạo, pin lưu trữ công nghệ...
Định hướng xây dựng và triển khai các đề án để phát triển các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế để Nhà nước và tư nhân có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc tế đóng vai trò dẫn dắt trụ cột trong lĩnh vực năng lượng.
TS. Hiển cho biết Nghị quyết 29 cũng xác định doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò quan trọng của đột phá, nhưng để thực hiện thành công quá trình này thì doanh nghiệp trong nước vẫn là đóng vai trò là quyết định quá trình thực hiện thành công mục tiêu này.
Trước đó, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã xác định phải từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng; chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện 8). Trong đó, xác định mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 - 2030, khoảng 6,5 - 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 – 2050; phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Việt Nam được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất. Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.
Quy hoạch điện 8 cũng đề ra nhiều biện pháp quan trọng, như định hướng hình thành các trung tâm công nghiệp năng lượng tái tạo; khuyến khích doanh nghiệp trong nước thực hiện các công trình dự án điện phức tạp, kỹ thuật cao…
Tuy nhiên, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng chỉ ra ngành công nghiệp năng lượng Việt Nam đang gặp một số khó khăn thách thức.
Thứ nhất, nhu cầu năng lượng đang phát triển rất nhanh, trong khi các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu, nhiều dự án điện bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch.
Thứ hai, trữ lượng và sản lượng sản xuất than, dầu thô, khí suy giảm hằng năm. Yêu cầu nhập khẩu năng lượng là một vấn đề trong tình hình phát triển của ngành công nghiệp năng lượng Việt Nam, vì nó làm giảm khả năng tự chủ về năng lượng, tăng sự phù thuộc vào các nền kinh tế khác.
Thứ ba, tình hình phát triển của ngành công nghiệp năng lượng thế giới thời gian qua cho thấy có sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp năng lượng với sự thay đổi của các chính sách, cơ cấu, công nghệ: từ sản xuất, tiêu thụ các nguồn nhiên liệu hoá thạch truyền thống (than, dầu, khí tự nhiên) sang các nguồn năng lượng tái tạo bền vững (gió, mặt trời, sinh khối...).
Theo TS. Hiển, để đạt được mục tiêu của ngành năng lượng vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cần thiết phải sớm có những cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam trong bối cảnh mới.
Đồng thời nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp năng lượng thuộc mọi thành phần kinh tế; từ đó tạo ra sự chủ động về năng lượng cho Việt Nam đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ hơn nữa bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ để đạt mức phát thải ròng bằng "0" (Net Zero) vào năm 2050.
PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO CÒN NHIỀU THÁCH THỨC
Tại hội thảo, vấn đề phát triển năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) cũng được các đại biểu đặc biệt quan tâm. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Năng lượng - Môi trường, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định: Tiềm năng gió và mặt trời ở Việt Nam là rất lớn, nhưng để khai thác hiệu quả và khắc phục hạn chế của các loại hình này cần công nghiệp linh hoạt về lưu trữ, tăng cường lưới điện.
Nhắc lại tình trạng thiếu điện ở miền Bắc trong hai tháng gần đây, ông Tuấn nhấn mạnh việc này đã được cảnh báo nhưng để đưa vào được một nguồn điện mới cần ít nhất khoảng 3 - 4 năm, thậm chí lâu hơn. Bởi vậy, theo ông Tuấn việc chuẩn bị để đảm bảo an ninh năng lượng phải làm từ sớm.
Đối với vấn đề phát triển điện mặt trời, ông Tuấn cho biết công nghệ thiết bị điện mặt trời đang phát triển nhanh và xu thế giá rẻ. Tuy nhiên, cần phải rút kinh nghiệm từ những hệ lụy trong đầu tư thời gian vừa qua để nguồn điện này không chỉ sản xuất tự sản, tự tiêu mà vẫn khuyến khích hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, song cũng không ảnh hưởng xấu tới lưới điện.
Bổ sung thêm, ông Lê Nho Thông - Phó Giám đốc kinh doanh Công nghệ năng lượng số của Huawei Việt Nam, cho biết mặc dù Quy hoạch Điện 8 khuyến khích sử dụng điện mặt trời tự sản, tự tiêu, nhưng việc nâng cao sử dụng tối đa điện mặt trời phát ra là điều rất quan trọng. Nếu không phát lên lưới thì phải có hệ thống lưu trữ. Việc lưu trữ năng lượng hiện nay có nhiều khó khăn nhất định cho doanh nghiệp vì chi phí đầu tư rất lớn. Vì vậy, có thể cân nhắc đưa ra một số chính sách khuyến khích như mua một phần sản lượng điện mặt trời phát ra với công suất khoảng 20-30%. Đồng thời cho các doanh nghiệp, nhà máy trong khu công nghiệp tự mua bán lẫn nhau, có cơ chế mua bán chéo phần năng lượng dư thừa, bởi nếu để tự sản tự tiêu thì rất lãng phí.
Đề cập đến cơ hội phát triển điện gió tại Việt Nam, ông Nguyễn Thế Nghĩa - Tổng giám đốc Tổng công ty sản xuất thiết bị Viettel, cho biết nhiều chính sách mới đã được đề cập trong Quy hoạch điện 8 như ưu tiên, khuyến khích phát triển điện gió, điện mặt trời tự sản tự tiêu; phát triển mạnh điện gió ngoài khơi kết hợp với các loại hình năng lượng tái tạo khác…Tuy nhiên, với chi phí lên tới hàng tỷ USD đang là thách thức lớn đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, Chính phủ chưa có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển ngành năng lượng xanh như: Vốn vay ưu đãi dài hạn, bảo hộ đầu ra hoặc giao doanh nghiệp trong nước các dự án thí điểm cấp quốc gia…
Đồng tình, ông Lê Mạnh Cường, Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam, cho biết gió là tài nguyên vô hạn, còn nguồn vốn là hữu hạn nên "chậm một ngày, thiệt hại một ngày". Vì vậy, cần khẩn trương tận dụng cơ hội vô hạn của gió.
Chia sẻ kinh nghiệm về phát triển điện gió, ông Mark Hutchinson - Chủ tịch, Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á, Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) cho rằng việc phát triển 6 GW điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện 8 là rất quan trọng đối với Việt Nam vì mục tiêu Net Zero và vì an ninh năng lượng dài hạn của đất nước. Tuy nhiên, nếu triển khai phương thức đấu thầu, sẽ cần ít nhất hai năm để tháo gỡ các rào cản pháp lý và ban hành các biện pháp chính sách. Vì vậy, việc xem xét và đề xuất “Cơ chế phát triển nhanh” là rất cấp thiết trong giai đoạn quyết sách của Chính phủ, cơ chế này cần được Chính phủ xem xét và ủng hộ.