Sản xuất công nghiệp quý 1/2023: Nhiều ngành chủ lực suy giảm
29/03/2023, 12:46
Chia sẻ
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/3, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý 1/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,32%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,38%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,6%, làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Tính chung quý 1/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%) do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm.
Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP quý 1 so với cùng kỳ năm trước các năm 2019-2023 của một số ngành công nghiệp trọng điểm. Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 2,8%), làm giảm 0,7 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo giảm 2,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,3%), làm giảm 1,6 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8%), làm giảm 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,8% (cùng kỳ năm 2022 tăng 1,4%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất quý 1/2023 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II giảm so với cùng kỳ năm trước, gồm: giường, tủ, bàn, ghế giảm 13,5%; phương tiện vận tải khác giảm 11,9%; giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 10,3%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 8,7%; xe có động cơ giảm 8,2%; trang phục giảm 7,7%; sản xuất thiết bị điện giảm 6,9%.
Bên cạnh đó, chỉ số sản xuất của một số ngành tăng là đồ uống tăng 27,3%; than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 19,4%; khai thác quặng kim loại tăng 14%; sản phẩm từ cao su và plastic tăng 11,6%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý 1/2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 48 địa phương và giảm ở 15 địa phương trên cả nước.
Một số địa phương có chỉ số sản xuất đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao.
Ngược lại, một số địa phương có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm.
Tốc độ tăng/giảm IIP quý 1 năm 2023 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương (%). Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý 1/2023 giảm so với cùng kỳ năm trước: Ô tô giảm 17,8%; thép thanh, thép góc giảm 15,8%; xe máy giảm 13,8%; linh kiện điện thoại giảm 13,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên và điện thoại di động cùng giảm 13,1%; quần áo mặc thường giảm 10,2%; xi măng giảm 9,9%; phân Urê giảm 6,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 6,1%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước: Bia tăng 27,8%; xăng, dầu tăng 20,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 10,8%; sắt, thép thô tăng 9,2%; đường kính tăng 6,6%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2023 tăng 20,9% so với tháng trước và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý 1/2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 4,4% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I năm 2023 là 81,1% (bình quân quý I năm 2022 là 79,9%).
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và giảm 1,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,3% và giảm 1,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1% và giảm 2,6%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,8% và giảm 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tương đương cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,3% và giảm 0,5%.
Sự sụt giảm của sản xuất công nghiệp trong những tháng đầu năm 2023 là do chịu tác động từ cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài.
Cụ thể, cạnh tranh chiến lược các nước lớn, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại gay gắt hơn. Xung đột Nga - Ukraine khiến giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong nước.
Cùng với đó, lạm phát vẫn còn ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn chưa nới lỏng, xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ tại một số thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, EU…đã khiến đơn hàng xuất khẩu giảm, ảnh hưởng lớn đến sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hơn nữa, việc Trung Quốc mở cửa trở lại đã tạo ra nhiều áp lực đối với các quốc gia có những mặt hàng xuất khẩu tương đồng, trong đó có Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, sức mua dù đã khôi phục nhưng vẫn còn yếu, chưa kích thích sản xuất. Sự thiếu hỗ trợ giữa thị trường nội địa và các ngành sản xuất hay liên kết giữa thị trường nội địa và khu vực sản xuất yếu.
Các doanh nghiệp vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ở trong bối cảnh khó khăn do thiếu đơn hàng, khả năng hấp thụ vốn đã bắt đầu giảm.
Sức ép lạm phát, lãi suất gia tăng cũng đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc tiêu dùng các sản phẩm xa xỉ. Mặt khác, thói quen tiêu dùng trong thời kỳ Covid-19 của một bộ phận người dân vẫn được duy trì đến thời điểm hiện tại.
Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình cũng giảm nhiều do người dân chủ yếu tập trung mua sắm các mặt hàng này trong giai đoạn trước Tết.
Cùng chuyên mục
Việt Nam – Hàn Quốc tăng cường hợp tác phát triển thủy sản và đầu tư nuôi biển
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Đại dương và Thủy sản Hàn Quốc vừa ký kết Bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác thủy sản, tăng cường đầu tư nuôi biển và chuyển giao công nghệ, đồng thời phối hợp tháo gỡ "thẻ vàng" về khai thác IUU mà Việt Nam đang phải đối mặt…
Đài Loan tăng cường kiểm tra sầu riêng nhập khẩu từ Việt Nam
Kể từ ngày 22/7/2025 đến ngày 21/8/2025, Đài Loan sẽ áp dụng hình thức kiểm tra theo lô, không giảm tần suất kiểm tra và kiểm tra trọng điểm đối với dư lượng kim loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật của mặt hàng sầu riêng tươi nhập khẩu từ Việt Nam...
22 tấn quế của Việt Nam bị Ba Lan trả về, doanh nghiệp cần siết chặt quản lý chất lượng
Cơ quan Thanh tra chất lượng Thương mại các Sản phẩm thực phẩm Nông nghiệp Ba Lan đã bắt giữ lô hàng thực phẩm 22 tấn quế từ Việt Nam vào Ba Lan do mùi mốc, tạp chất vi sinh (nấm mốc và men) và các chất ô nhiễm hữu cơ khác...
Ngành sắn cần giải bài toán đổi mới để phát triển bền vững
Với kim ngạch thường niên dao động từ 1 đến 1,4 tỷ USD, ngành sắn đóng góp đáng kể vào nền kinh tế nông nghiệp quốc gia. Tuy nhiên, đằng sau những con số tăng trưởng là hàng loạt thách thức đặt ra cho ngành, đòi hỏi sự chuyển đổi mạnh mẽ về công nghệ, thị trường và mô hình sản xuất…
Giá xăng đi lên, các mặt hàng dầu tăng giảm tùy loại
Theo diễn biến của thị trường thế giới, giá xăng dầu trong nước kỳ điều hành ngày 7/8 có sự tăng giảm trái chiều. Cụ thể, xăng E5RON92 tăng 207 đồng/lít, xăng RON95-III tăng 234 đồng/lít. Ngược lại, các loại dầu có mức giảm từ 54 đồng/lít - 268 đồng/lít, riêng dầu madút 180CST 3.5S tăng 114 đồng/kg so với giá cơ sở hiện hành…
AI Điểm tin
Bản tin sáng ngày 9/8/2025
Bản tin sáng ngày 9/8 điểm qua một số tin tức kinh tế nổi bật đã và đang diễn ra tại Việt Nam và thế giới trong tuần qua.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Hôm nay ngày 08/4/2025, Giám đốc Ban quản lý Dự án Thăng Long (Ban Thăng Long) Đinh Công Minh cho biết đã có tờ trình Bộ Xây dựng phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư dự án đường bộ cao tốc Dầu Giây - Tân Phú giai đoạn 1 theo phương thức PPP.
Cụ thể, thời gian qua, Ban Thăng Long đã tổ chức lựa chọn nhà đầu tư dự án bằng đấu thầu rộng rãi trong nước. Trên cơ sở đánh giá kết quả hồ sơ dự thầu, đơn vị này đã kiến nghị Cục Đường bộ Việt Nam phê duyệt liên danh xây dựng phát triển hạ tầng giao thông Trường Hải - Sơn Hải là nhà đầu tư thực hiện dự án PPP đường cao tốc Dầu Giây - Tân Phú, giai đoạn 1.