
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Bảy, 22/11/2025
Huyền Vy
29/03/2023, 12:46
Sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm khiến cho giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý 1/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%...
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/3, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý 1/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,32%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,38%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,6%, làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Tính chung quý 1/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%) do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm.
Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 2,8%), làm giảm 0,7 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo giảm 2,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,3%), làm giảm 1,6 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8%), làm giảm 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,8% (cùng kỳ năm 2022 tăng 1,4%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất quý 1/2023 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II giảm so với cùng kỳ năm trước, gồm: giường, tủ, bàn, ghế giảm 13,5%; phương tiện vận tải khác giảm 11,9%; giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 10,3%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 8,7%; xe có động cơ giảm 8,2%; trang phục giảm 7,7%; sản xuất thiết bị điện giảm 6,9%.
Bên cạnh đó, chỉ số sản xuất của một số ngành tăng là đồ uống tăng 27,3%; than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 19,4%; khai thác quặng kim loại tăng 14%; sản phẩm từ cao su và plastic tăng 11,6%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý 1/2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 48 địa phương và giảm ở 15 địa phương trên cả nước.
Một số địa phương có chỉ số sản xuất đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao.
Ngược lại, một số địa phương có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý 1/2023 giảm so với cùng kỳ năm trước: Ô tô giảm 17,8%; thép thanh, thép góc giảm 15,8%; xe máy giảm 13,8%; linh kiện điện thoại giảm 13,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên và điện thoại di động cùng giảm 13,1%; quần áo mặc thường giảm 10,2%; xi măng giảm 9,9%; phân Urê giảm 6,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 6,1%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước: Bia tăng 27,8%; xăng, dầu tăng 20,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 10,8%; sắt, thép thô tăng 9,2%; đường kính tăng 6,6%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2023 tăng 20,9% so với tháng trước và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý 1/2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 4,4% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I năm 2023 là 81,1% (bình quân quý I năm 2022 là 79,9%).
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và giảm 1,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,3% và giảm 1,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1% và giảm 2,6%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,8% và giảm 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tương đương cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,3% và giảm 0,5%.
Sự sụt giảm của sản xuất công nghiệp trong những tháng đầu năm 2023 là do chịu tác động từ cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài.
Cụ thể, cạnh tranh chiến lược các nước lớn, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại gay gắt hơn. Xung đột Nga - Ukraine khiến giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong nước.
Cùng với đó, lạm phát vẫn còn ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn chưa nới lỏng, xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ tại một số thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, EU…đã khiến đơn hàng xuất khẩu giảm, ảnh hưởng lớn đến sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hơn nữa, việc Trung Quốc mở cửa trở lại đã tạo ra nhiều áp lực đối với các quốc gia có những mặt hàng xuất khẩu tương đồng, trong đó có Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, sức mua dù đã khôi phục nhưng vẫn còn yếu, chưa kích thích sản xuất. Sự thiếu hỗ trợ giữa thị trường nội địa và các ngành sản xuất hay liên kết giữa thị trường nội địa và khu vực sản xuất yếu.
Các doanh nghiệp vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ở trong bối cảnh khó khăn do thiếu đơn hàng, khả năng hấp thụ vốn đã bắt đầu giảm.
Sức ép lạm phát, lãi suất gia tăng cũng đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc tiêu dùng các sản phẩm xa xỉ. Mặt khác, thói quen tiêu dùng trong thời kỳ Covid-19 của một bộ phận người dân vẫn được duy trì đến thời điểm hiện tại.
Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình cũng giảm nhiều do người dân chủ yếu tập trung mua sắm các mặt hàng này trong giai đoạn trước Tết.
Thiếu thống nhất giữa các quy định, khoảng trống pháp lý về thời hạn sử dụng đất, thủ tục chuyển nhượng dự án phức tạp... đang khiến nhiều dự án khu công nghiệp "đóng băng", làm giảm sức hấp dẫn đầu tư FDI của TP.Hồ Chí Minh…
Phiên họp Hội đồng cấp Bộ trưởng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) lần thứ 9 cùng chuỗi sự kiện liên quan đã diễn ra ngày 20–21/11/2025 tại Melbourne, Úc. Sự kiện quy tụ Bộ trưởng và Quan chức cấp cao của 12 nền kinh tế thành viên gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Nhật Bản, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Việt Nam và Vương quốc Anh...
Mưa lũ kéo dài từ ngày 15/11 đến sáng 21/11 gây thiệt hại nặng nề tại các tỉnh Nam Trung Bộ, làm 52 người chết và mất tích, hàng chục nghìn nhà dân bị ngập sâu, nhiều tuyến giao thông tê liệt, tổng thiệt hại kinh tế theo thống kê sơ bộ ước vượt 3.000 tỷ đồng.
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Australia 2025 không chỉ là một sự kiện xúc tiến thương mại, mà còn là một nền tảng chiến lược góp phần hiện thực hóa tầm nhìn hợp tác mới, sâu rộng hơn trên các trụ cột: thương mại – đầu tư – năng lượng – logistics – đổi mới sáng tạo – giao lưu doanh nghiệp kiều bào…
Trong khuôn khổ phiên họp Hội đồng cấp Bộ trưởng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có các cuộc gặp song phương với Quốc vụ khanh Văn phòng Nội các Nhật Bản Kazuchika Iwata và Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư New Zealand Todd McClay…
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: