16:44 26/04/2021

Kỹ năng lao động của Việt Nam kém xa so với nhóm ASEAN-4

Khánh Vy

Kỹ năng lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế, kém xa so với nhóm ASEAN-4, chỉ đạt 46/100 điểm, xếp thứ 103 thế giới.

thị trường lao động
thị trường lao động

Đó là thông tin được đưa ra tại Hội thảo Phát triển thị trường lao động nhằm thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức ngày 26/4/2021.

CHƯA ĐẠT CHỈ TIÊU LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO

Bà Lê Thị Xuân Quỳnh, Phó Trưởng ban Ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM), cho biết mặc dù thị trường lao động nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian qua nhưng chất lượng nguồn lao động còn thấp. Việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp chủ yếu vẫn là sơ cấp và các hình thức đào tạo dưới 3 tháng, chiếm 75,3% năm 2019, cao đẳng và trung cấp chỉ 24,7%.

“Như vậy, chúng ta chưa đạt chỉ tiêu tỷ lệ lao động đào tạo có bằng cấp chứng chỉ là 25% vào năm 2020”, bà Quỳnh cho biết.

Điều đáng nói là trong đào tạo còn thiếu gắn kết giữa đào tạo và thực hành. Vì thế, kỹ năng lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103), kém rất xa so với nhóm ASEAN-4.

Một điều cần lưu ý trong thị trường lao động của Việt Nam đó là tình trạng già hóa lao động. Lực lượng lao động tại Việt Nam ngày một già hóa với lao động cao tuổi tăng mạnh, lao động trẻ giảm và không đủ thay thế lực lượng lao động đang già hóa. Tuổi bình quân và trung vị của lực lượng lao động tăng lên. 10 năm tăng khoảng 3 tuổi, tuổi bình quân là 41 tuổi, tuổi trung vị là 40 tuổi năm 2019

Một góc khác của thị trường lao động Việt Nam đó là tình trạng thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 15-45 thường xuyên ở mức cao. Năm 2019 chiếm 6,51%, chiếm 38,7% tổng số người thất nghiệp.

Chức năng dịch chuyển lao động theo tín hiệu thị trường chưa rõ ràng. Lao động phân bổ không đều, còn bất hợp lý giữa các vùng: Các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,87%, Tây Nguyên chiếm 6,25% lực lựng lao động.

Theo bà Quỳnh, nguyên nhân dẫn các hạn chế trên của thị trường lao động Việt Nam là do chính sách phát triển thị trường lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Đó là sự thiếu đồng bộ, triển khai chậm sắp xếp mạng lưới trường lớp chưa đi cùng với hoàn thiện quy hoạch tổng thể về phát triển trường lớp; xác định các ngành nghề trọng điểm nhưng chưa có chính sách gắn kết giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp; Cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục chưa đi cùng với tự chủ về con người, về chương trình đào tạo; thiếu nguồn lực để thực hiện.

Cơ chế giám sát thực hiện các chương trình, chính sách kém hiệu lực, hiệu quả thấp. Thiếu khung pháp lý, chế tài xử lý về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Đáng chú ý, theo bà Quỳnh những quy định về lương còn chưa đảm bảo được cuộc sống của người lao động và còn mang tính hình thức.

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG

Cơ cấu lại nền kinh tế được xác định là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.

Một trong những nội dung quan trọng nhất của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam là chuyển dần từ tăng trưởng dựa trên tăng số lượng các yếu tố đầu vào sản xuất sang tăng trưởng trưởng dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Để làm được như vậy, Việt Nam cần thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực theo hướng thúc đẩy chuyển dịch tích cực các nguồn lực sản xuất sang các ngành, lĩnh vực có năng lực cạnh tranh hơn, năng suất lao động cao hơn và đóng góp tốt hơn vào quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, trong đó có nguồn lực lao động.

Theo đó, bà Quỳnh đề xuất, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo lập các điều kiện cơ bản để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của thị trường lao động theo hướng hiện đại, bảo đảm đồng bộ, linh hoạt, minh bạch, cạnh tranh và hội nhập.

Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động về quy mô, chất lượng lao động, cơ cấu ngành, nghề. Tăng cường vai trò của nhà nước trong việc giám sát, điều tiết cung - cầu lao động; kết nối cung - cầu nhân lực trong cả nước, khu vực và gắn với thị trường lao động quốc tế, khu vực ASEAN.

Thúc đẩy sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lao động trong đó, khuyến khích sự tham gia của người sử dụng lao động, doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp trong việc thiết kế các chương trình đào tạo (nội dung đào tạo, chuẩn đầu ra), tham gia đào tạo. Cần có quy định yêu cầu các cơ sở giáo dục đào tạo phải nâng cao thời lượng và chất lượng của các mô đun thực hành; khu vực doanh nghiệp phải thực hiện đào tạo và đào tạo lại lao động.

Đáng lưu ý, theo bà Quỳnh, chính sách tiền lương cần sửa đổi gắn với năng lực, hiệu quả lao động. Để làm được điều đó cần đổi mới công tác đánh giá hiệu quả công việc của người lao động bằng cách xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá thực hiện công việc (KPI) cho từng vị trí việc làm. Tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức chính trị-xã hội.