Làn sóng đô thị loại 1
Tuy các tiêu chí, thủ tục chặt chẽ như vậy, nhưng xem ra để trở thành đô thị loại 1 không mấy khó khăn
Trào lưu phấn đấu trở thành đô thị loại 1 mới chỉ được nhìn nhận ở lợi ích ngắn hạn, còn các hệ quả của nó thì ít thấy được xem xét một cách thấu đáo, toàn diện.
Không dễ để trở thành đô thị loại 1
Theo quy định của Nghị định 42/2009 về phân loại đô thị, để trở thành đô thị loại 1 thì phải trở thành thành phố trung tâm của vùng, liên tỉnh, có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trên 85%, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh, quy mô dân số trên 500.000 người, mật độ dân số bình quân trên 12.000 người/km2.
Thủ tục để được công nhận là đô thị loại 1 rất chặt chẽ, phải được Hội đồng Nhân dân tỉnh phê duyệt phương án và Hội đồng thẩm định cấp quốc gia chấm điểm, nếu đạt 70/100 điểm thì Bộ Xây dựng sẽ xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định công nhận đô thị loại 1.
Tuy các tiêu chí, thủ tục chặt chẽ như vậy, nhưng xem ra để trở thành đô thị loại 1 không mấy khó khăn. Hàng loạt các thành phố được công nhận đô thị loại 1 trong một thời gian ngắn.
Trừ các thành phố được công nhận từ năm 2003 như Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế (2005), từ mấy năm nay các thành phố được công nhận đô thị loại 1 ngày càng tăng nhanh: Vinh (năm 2008), Đà Lạt (2009), Nha Trang (2009), Quy Nhơn (2010), Buôn Ma Thuột (2010).
Việc trở thành đô thị loại 1 đã trở thành mục tiêu phấn đấu của rất nhiều địa phương, được ghi vào nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của Hội đồng Nhân dân tỉnh và nằm trong quy hoạch phát triển dài hạn của tỉnh.
Chẳng hạn như tỉnh Thái Nguyên, việc phấn đấu đạt đô thị loại 1 đã được thông qua trong nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh năm 2010 và chuẩn bị trình Thủ tướng phê duyệt. Thành phố Hạ Long phấn đấu đến 2012 trở thành đô thị loại 1; thành phố Thanh Hóa, Việt Trì phấn đấu đến 2015, còn Bình Dương, Pleiku cũng phấn đấu đến 2020?
Lợi ích ngắn hạn và tác động lâu dài
Việc trở thành đô thị loại 1 đã trở thành mục tiêu phấn đấu của rất nhiều địa phương, được ghi vào nghị quyết phát triển kinh tế -xã hội của Hội đồng Nhân dân tỉnh và nằm trong quy hoạch phát triển dài hạn của tỉnh.
Vậy tại sao làn sóng đô thị loại 1 lại nổi lên như vậy? Tỉnh nào cũng muốn có thành phố đô thị loại 1, thậm chí còn tiếp tục phấn đấu trở thành đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương? Đó là vì khi trở thành đô thị loại 1 được lợi nhiều hơn hại.
Lợi ngay trước mắt là giá đất tăng nhờ công bố quy hoạch sẽ trở thành đô thị loại 1. Các quyết định quy hoạch này trở thành đòn bẩy cho thị trường bất động sản tại địa phương tăng trưởng nhanh chóng. Theo đó, các dự án hạ tầng, bất động sản cứ ùn ùn kéo đến, thu hút đầu tư tại địa phương, giúp các tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh (địa phương nào mà chẳng muốn tăng trưởng cao?).
Còn về lâu dài, việc trở thành đô thị loại 1 cũng giúp cho các tỉnh có thêm các nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, với các cơ chế chính sách mới, được tự chủ nhiều hơn.
Tuy nhiên, những tác động lâu dài của việc đô thị hóa và nâng cấp đô thị thì hầu như chưa được các cơ quan quản lý nghiên cứu đầy đủ, toàn diện. Trào lưu này mới chỉ được nhìn nhận ở lợi ích ngắn hạn, còn các hệ quả của nó thì ít thấy được xem xét một cách thấu đáo, toàn diện.
Ví dụ, như vấn đề biến đổi môi trường sống khi đô thị hóa diễn ra ở hầu khắp các địa phương. Bằng cảm nhận thông thường cũng thấy được xi măng, sắt thép đang lấp dần ao hồ, bãi biển, rừng cây, đồng ruộng khiến cho môi trường bị suy giảm nghiêm trọng. Với tốc độ đô thị hóa như vậy thì sẽ đến ngày không còn chỗ cho thiên nhiên, chỉ còn người và các sản phẩm của đô thị hóa là đường và nhà cao tầng. Hệ quả là chất lượng cuộc sống của con người bị giảm sút chứ không được nâng cao như mục tiêu của các đề án đô thị hóa và nâng cấp đô thị đặt ra.
Còn ngay thời điểm hiện nay, chúng ta cũng bắt đầu nhìn thấy những tác động bất lợi từ việc thực hiện quy hoạch đô thị như: các cơ sở hạ tầng xã hội không phát triển kịp với tốc độ đô thị hóa và di dân cơ học. Thành phố nào cũng thiếu bệnh viện, trường học, thiếu nơi giải trí, thiếu cả nghĩa trang, bãi rác… Các lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng phát sinh nhiều bất cập từ việc đô thị hóa, các di sản phi vật thể ở nông thôn dần biến mất vì người dân nông thôn trở thành cư dân đô thị, lối sống, văn hóa cũng thay đổi nhanh chóng.
Mặt khác, mức độ chênh lệch giàu nghèo cũng gia tăng, vì có những tầng lớp có thể phát triển thu nhập rất nhanh nhờ vào đô thị hóa, nhưng cũng có những người dân bị mất đất, mất luôn cả nghề kiếm sống do đô thị hóa. Tiền đền bù được họ nhanh chóng tiêu hết nên lại tay trắng đi làm thuê.
Xu hướng đô thị hóa là tất yếu trên con đường phát triển của mỗi quốc gia, tuy nhiên lộ trình và các biện pháp thực hiện như thế nào rất quan trọng, nếu như hôm nay chúng ta không tính trước các hệ quả và bước đi phù hợp thì ngày mai, thế hệ sau sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Bộ Xây dựng cũng được giao xây dựng chương trình phát triển đô thị phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhưng e rằng chương trình này không đủ sức giải quyết vấn đề, mà cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược tầm quốc gia với quan điểm phát triển đất nước theo định hướng rõ ràng và cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình thực hiện trước khi cho phép tiếp tục đô thị hóa và nâng cấp đô thị.
Quang Minh (TBKTSG)
Không dễ để trở thành đô thị loại 1
Theo quy định của Nghị định 42/2009 về phân loại đô thị, để trở thành đô thị loại 1 thì phải trở thành thành phố trung tâm của vùng, liên tỉnh, có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trên 85%, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh, quy mô dân số trên 500.000 người, mật độ dân số bình quân trên 12.000 người/km2.
Thủ tục để được công nhận là đô thị loại 1 rất chặt chẽ, phải được Hội đồng Nhân dân tỉnh phê duyệt phương án và Hội đồng thẩm định cấp quốc gia chấm điểm, nếu đạt 70/100 điểm thì Bộ Xây dựng sẽ xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định công nhận đô thị loại 1.
Tuy các tiêu chí, thủ tục chặt chẽ như vậy, nhưng xem ra để trở thành đô thị loại 1 không mấy khó khăn. Hàng loạt các thành phố được công nhận đô thị loại 1 trong một thời gian ngắn.
Trừ các thành phố được công nhận từ năm 2003 như Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế (2005), từ mấy năm nay các thành phố được công nhận đô thị loại 1 ngày càng tăng nhanh: Vinh (năm 2008), Đà Lạt (2009), Nha Trang (2009), Quy Nhơn (2010), Buôn Ma Thuột (2010).
Việc trở thành đô thị loại 1 đã trở thành mục tiêu phấn đấu của rất nhiều địa phương, được ghi vào nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của Hội đồng Nhân dân tỉnh và nằm trong quy hoạch phát triển dài hạn của tỉnh.
Chẳng hạn như tỉnh Thái Nguyên, việc phấn đấu đạt đô thị loại 1 đã được thông qua trong nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh năm 2010 và chuẩn bị trình Thủ tướng phê duyệt. Thành phố Hạ Long phấn đấu đến 2012 trở thành đô thị loại 1; thành phố Thanh Hóa, Việt Trì phấn đấu đến 2015, còn Bình Dương, Pleiku cũng phấn đấu đến 2020?
Lợi ích ngắn hạn và tác động lâu dài
Việc trở thành đô thị loại 1 đã trở thành mục tiêu phấn đấu của rất nhiều địa phương, được ghi vào nghị quyết phát triển kinh tế -xã hội của Hội đồng Nhân dân tỉnh và nằm trong quy hoạch phát triển dài hạn của tỉnh.
Vậy tại sao làn sóng đô thị loại 1 lại nổi lên như vậy? Tỉnh nào cũng muốn có thành phố đô thị loại 1, thậm chí còn tiếp tục phấn đấu trở thành đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương? Đó là vì khi trở thành đô thị loại 1 được lợi nhiều hơn hại.
Lợi ngay trước mắt là giá đất tăng nhờ công bố quy hoạch sẽ trở thành đô thị loại 1. Các quyết định quy hoạch này trở thành đòn bẩy cho thị trường bất động sản tại địa phương tăng trưởng nhanh chóng. Theo đó, các dự án hạ tầng, bất động sản cứ ùn ùn kéo đến, thu hút đầu tư tại địa phương, giúp các tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh (địa phương nào mà chẳng muốn tăng trưởng cao?).
Còn về lâu dài, việc trở thành đô thị loại 1 cũng giúp cho các tỉnh có thêm các nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, với các cơ chế chính sách mới, được tự chủ nhiều hơn.
Tuy nhiên, những tác động lâu dài của việc đô thị hóa và nâng cấp đô thị thì hầu như chưa được các cơ quan quản lý nghiên cứu đầy đủ, toàn diện. Trào lưu này mới chỉ được nhìn nhận ở lợi ích ngắn hạn, còn các hệ quả của nó thì ít thấy được xem xét một cách thấu đáo, toàn diện.
Ví dụ, như vấn đề biến đổi môi trường sống khi đô thị hóa diễn ra ở hầu khắp các địa phương. Bằng cảm nhận thông thường cũng thấy được xi măng, sắt thép đang lấp dần ao hồ, bãi biển, rừng cây, đồng ruộng khiến cho môi trường bị suy giảm nghiêm trọng. Với tốc độ đô thị hóa như vậy thì sẽ đến ngày không còn chỗ cho thiên nhiên, chỉ còn người và các sản phẩm của đô thị hóa là đường và nhà cao tầng. Hệ quả là chất lượng cuộc sống của con người bị giảm sút chứ không được nâng cao như mục tiêu của các đề án đô thị hóa và nâng cấp đô thị đặt ra.
Còn ngay thời điểm hiện nay, chúng ta cũng bắt đầu nhìn thấy những tác động bất lợi từ việc thực hiện quy hoạch đô thị như: các cơ sở hạ tầng xã hội không phát triển kịp với tốc độ đô thị hóa và di dân cơ học. Thành phố nào cũng thiếu bệnh viện, trường học, thiếu nơi giải trí, thiếu cả nghĩa trang, bãi rác… Các lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng phát sinh nhiều bất cập từ việc đô thị hóa, các di sản phi vật thể ở nông thôn dần biến mất vì người dân nông thôn trở thành cư dân đô thị, lối sống, văn hóa cũng thay đổi nhanh chóng.
Mặt khác, mức độ chênh lệch giàu nghèo cũng gia tăng, vì có những tầng lớp có thể phát triển thu nhập rất nhanh nhờ vào đô thị hóa, nhưng cũng có những người dân bị mất đất, mất luôn cả nghề kiếm sống do đô thị hóa. Tiền đền bù được họ nhanh chóng tiêu hết nên lại tay trắng đi làm thuê.
Xu hướng đô thị hóa là tất yếu trên con đường phát triển của mỗi quốc gia, tuy nhiên lộ trình và các biện pháp thực hiện như thế nào rất quan trọng, nếu như hôm nay chúng ta không tính trước các hệ quả và bước đi phù hợp thì ngày mai, thế hệ sau sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Bộ Xây dựng cũng được giao xây dựng chương trình phát triển đô thị phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhưng e rằng chương trình này không đủ sức giải quyết vấn đề, mà cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược tầm quốc gia với quan điểm phát triển đất nước theo định hướng rõ ràng và cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình thực hiện trước khi cho phép tiếp tục đô thị hóa và nâng cấp đô thị.
Quang Minh (TBKTSG)