Thị trường lao động quý 1/2023 duy trì đà phục hồi
Anh Nhi
06/04/2023, 15:22
Thị trường lao động quý 1/2023 tiếp tục duy trì đà phục hồi khi số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước cũng như cùng kỳ năm trước…
Lực lượng lao động quý 1/2023 tăng nhẹ.
Theo ghi nhận của Tổng cục Thống kê tại Báo cáo tình hình thị trường lao động việc làm quý 1/2023 ngày 6/4, thị trường lao động quý 1/2023 tiếp tục duy trì đà phục hồi khi số người có việc làm tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước…
Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý 1/2023 là 52,2 triệu người, tăng 88,7 nghìn người so với quý trước và tăng hơn một triệu người so với cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng lực lượng lao động so với quý trước tăng mạnh vào thời điểm mở cửa sau dịch Covid 19 - quý 4 năm 2021 (3,4%) nhưng bắt đầu năm 2022, tốc độ tăng lực lượng lao động so với quý trước có dấu hiệu giảm dần, tỷ lệ này giảm từ 0,9% ở quý 1/2022 xuống 0,5% ở quý cuối năm. Đến quý 1/2023, tốc độ tăng lực lượng lao động duy trì tại mức 0,2%.
Lực lượng lao động quý 1/2023 tăng nhẹ.
“Với các biến động tiêu cực từ thị trường lao động cũng như tình hình kinh tế xã hội, lực lượng lao động đang có dấu hiệu tăng chậm lại so với thời điểm sau dịch Covid-19”, Tổng cục Thống kê nhận định.
Số người có việc làm nhìn chung trên toàn quốc vẫn tiếp tục tăng so với quý trước, tuy nhiên có sự sụt giảm tại một số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Bắc Ninh, Bắc Giang.
Cụ thể, số lao động có việc làm ở Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,4%, Vũng Tàu giảm 2,6%, Bình Phước giảm gần 4,0%, Nghệ An giảm 5,5%, Bắc Giang giảm 4,5%, Bắc Ninh giảm 0,9%, Thái Nguyên giảm 2,2%. Điều này làm giảm đà phục hồi của thị trường lao động nói chung.
Trong tổng số 51,1 triệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 39,0%, tương đương gần 20,0 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 33,9%, tương đương 17,3 triệu người. Lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, 27,1%, tương đương 13,8 triệu người. So với quý trước và cùng kỳ năm trước, qui mô lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều giảm lần lượt là 285,6 nghìn người và 53,6 nghìn người; lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lần lượt là 360,9 nghìn người và 566,9 nghìn người; lao động trong ngành dịch vụ tăng lần lượt là 38,1 nghìn người và 599,3 nghìn người.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý 1 là 7,0 triệu đồng, tăng 197 nghìn đồng so với quý trước và tăng 640 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, thu nhập bình quân của lao động trên cả nước tăng, tuy nhiên có sự sụt giảm tại một số địa phương tập trung nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp như Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh,... So với quý trước, thất nghiệp quý 1/2023 giảm cả về số lượng và tỷ lệ trên cả nước, nhưng các chỉ báo ở hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn trái ngược.
So với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (15 đến 24 tuổi) giảm, tuy nhiên tỷ lệ thanh niên không có việc làm, không tham gia học tập hoặc đào tạo tăng.
So với quý trước, số lao động nghỉ giãn việc do doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng trong quý đầu năm 2023 giảm, trong khi đó số lao động mất việc tăng lên.
Để thị trường lao động phục hồi bền vững, đảm bảo cuộc sống cho người lao động, Tổng cục Thống kê đề xuất 3 giải pháp cụ thể.
Thứ nhất, tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, phát động các chương trình kích cầu nội địa, hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm kiếm khai thác thị trường mới, đơn hàng mới cho doanh nghiệp. Cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, điện-điện tử...
Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực; sắp xếp, tổ chức, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm cung cấp đủ lao động có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại cho người lao động để duy trì việc làm.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản trị thị trường lao động phù hợp, từng bước hiện đại, minh bạch có kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu khác làm cơ sở xây dựng và tổ chức triển khai kịp thời, hiệu quả kết nối cung cầu lao động, việc làm, an sinh xã hội.
Chuyên gia “hiến kế” đưa TP.HCM trở thành siêu đô thị mang tầm quốc tế
Các chuyên gia cho rằng TP.HCM sau sắp xếp để bứt phá vượt bậc trong giai đoạn mới cần xác định rõ triết lý phát triển, quy hoạch Thành phố có tính kết nối cao, với tầm nhìn toàn diện hơn chứ không phải ghép cơ học quy hoạch 3 địa phương cũ...
Hưng Yên nghiên cứu xây dựng khu kinh tế tự do, tạo đòn bẩy về thu hút FDI
Không chỉ tạo ra cú hích thu hút dòng vốn FDI quy mô lớn, Khu kinh tế tự do Hưng Yên được kỳ vọng sẽ mở rộng cơ hội phát triển cho doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy liên kết vùng, hình thành chuỗi sản xuất - dịch vụ - logistics hiện đại...
Đề xuất bố trí nguồn vốn cho tổ hợp công nghiệp đường sắt hơn 17.000 tỷ
Tổ hợp Công nghiệp đường sắt sẽ được xây dựng tại Hà Nội và là nơi thực hiện chuyển giao công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị, đồng thời sản xuất đầu máy và toa xe cho đường sắt quốc gia ....
Thí điểm phân làn, quy định tốc độ mới trên cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và Pháp Vân – Cầu Giẽ
Từ ngày 15/8, hai tuyến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và Pháp Vân – Cầu Giẽ sẽ áp dụng phương án thí điểm phân làn và quy định tốc độ mới trong một tháng, nhằm nâng cao an toàn giao thông và giảm ùn tắc…
Hải Phòng chỉ đạo tiến độ 43 dự án trọng điểm
Trong 43 dự án trọng điểm năm 2025 của thành phố Hải Phòng, có 27 dự án dự kiến khởi công, 10 dự án dự kiến hoàn thành và 6 dự án chuyển tiếp…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: