Thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng do hạn chế trong quản lý tài nguyên nước
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng xâm nhập mặn gây thiệt hại đến 509.804 ha diện tích cây trồng, 486.000 hộ bị thiếu nước sinh hoạt; trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn, tương đương 770 tỷ đồng…
Ngày 9/9, Kiểm toán Nhà nước đã công bố thông tin về cuộc kiểm toán quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững.
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỚI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Kết quả kiểm toán chỉ rõ, những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài nguyên nước kết hợp với các yếu tố biến đổi khí hậu, sự gia tăng của việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Công dẫn đến những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới Việt Nam. Đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu dân, cung cấp trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Cụ thể, số lượng nước sông Mê Công từ thượng nguồn về Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020 giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011, cùng với đó lượng phù sa bùn cát năm 2020 cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017 (37%); Số lượng nước năm 2020 giảm 22 tỷ m3 so với năm 2019 (giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011); tình trạng xâm nhập mặn gây thiệt hại đến khoảng 509.804 ha diện tích cây trồng, 486.000 hộ bị thiếu nước sinh hoạt; 1.509.528ha đất bị suy thoái chất lượng do giảm độ phì; 2.158 vụ sạt lở thiệt hại ước tính 1.078,9 tỷ đồng; trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn ước tính 770 tỷ đồng;
Chất lượng nước tại nhiều con sông, kênh, rạch đều ghi nhận tình trạng ô nhiễm là nguyên nhân dẫn đến 84.672 ca bệnh theo thống kê của ngành y tế trong giai đoạn 2016 - 2020; nhiều địa phương phản ánh sự suy giảm về số loài và số lượng cá thể nhiều loại sinh vật, thủy sản đặc trưng của sông Mê Công; đồng thời cũng góp phần dẫn đến tình trạng hàng trăm ngàn lao động phải di dời khỏi địa phương, rời bỏ các công việc truyền thống để tìm kiếm việc làm tại các thành phố, đô thị lớn.
Qua kiểm toán cho thấy trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm, chú trọng và có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững. Tổng nguồn lực tài chính đã sử dụng cho công tác quản lý tài nguyên nước tại các đơn vị được kiểm toán khoảng 42.542 tỷ đồng và ngày càng gia tăng để phục vụ cho các hoạt động điều tra cơ bản, dự báo, đánh giá tài nguyên nước, xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi, cấp thoát nước, phòng chống xâm nhập mặn.
Về hợp tác quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công. Đặc biệt là Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995 cùng nhiều hoạt động khác trong khuôn khổ của Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC); Tăng cường hợp tác song phương, đa phương như đảm bảo điều hòa dòng chảy và duy trì lưu lượng tối thiểu sông Sê San – Srêpôk sang Campuchia…
THIẾU CÁC CĂN CỨ ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Tuy nhiên, công tác này của Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn. Bởi hiện nay mới có 4/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995; Thiếu các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên MRC trong việc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công; Thiếu chỉ tiêu, hoạt động liên quan đến đánh giá tác động môi trường và phát triển bền vững quốc tế về quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông.
Hơn nữa, trong 04 quốc gia thành viên MRC, chỉ có Việt Nam tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc UNWC/1997 về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông thủy 1997. Do đó, gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các căn cứ tham chiếu chung khi xử lý vấn đề khác biệt hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án Công lý quốc tế….
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng còn hạn chế trong công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 – 2020 như công tác quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước, quy hoạch tài nguyên nước của lưu vực sông, nguồn nước liên tỉnh, nội tỉnh chưa kịp thời; Công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác khoáng sản lòng sông tại một số địa phương chưa xem xét kỹ lưỡng đến khoảng cách tối thiểu so với đường bờ, phạm vi bảo vệ bờ sông; chưa rà soát, tính toán kỹ lưỡng trữ lượng mỏ, công suất, thời gian khai thác; chưa thực hiện cải tạo phục hồi môi trường, gia cố đường bờ sạt lở sau khai thác; việc quản lý, giám sát khoáng sản tận thu trong quá trình xây dựng thủy điện tại lưu vực sông Mê Công chưa chặt chẽ…
Trên cơ sở kết quả kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị Ủy ban sông Mê Công Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 nghiên cứu, trao đổi, tham mưu cho Thủ tướng Chính Phủ đề xuất MRC xây dựng các văn bản/hướng dẫn kỹ thuật về giám sát sử dụng nước trên dòng nhánh; Đề xuất xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực sông Mê Công; Thúc đẩy MRC thực hiện chuyển giao các hệ thống quan trắc (thủy sản, sức khỏe hệ sinh thái, phù sa bùn cát…) và các quốc gia thành viên đưa vào vận hành hiệu quả các hệ thống này, nhằm đảm bảo cơ sở dữ liệu cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực sông Mê Công.
Đồng thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nguồn nước và bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững đến 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, trong đó có Việt Nam.