Xuất khẩu ghế ngồi năm 2023 đạt gần 3 tỷ USD, cao nhất trong các sản phẩm của ngành gỗ
Chu Khôi
08/03/2024, 07:28
Trong số 13,18 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2023, thì ghế ngồi đạt 2,83 tỷ USD; nội thất phòng ngủ đạt 1,18 tỷ USD; nội thất phòng bếp 0,97 tỷ USD; nội thất văn phòng 0,254 tỷ USD… Đặc biệt, sản phẩm ghế nhồi đệm đang được coi là “nhân tố chính” cho ngành gỗ, khi giá trị xuất khẩu đạt tới gần 2 tỷ USD.
Ghế ngồi chiếm tỷ trọng cao nhất trong xuất khẩu của ngành gỗ.
Trong khuôn khổ Hội chợ Xuất khẩu Đồ gỗ và Nội thất TP.HCM (Hawa Expo 2024), ngày 7/3/3034, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) phối hợp với Forest Trends tổ chức hội thảo “Nhân tố mới tạo đột phá trong chuyển đổi ngành gỗ việt Nam”.
MỸ LÀ THỊ TRƯỜNG LỚN NHẤT
Tại hội thảo, VIFOREST đã công bố Báo cáo toàn cảnh xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam năm 2023. Theo đó, năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ đạt 13,18 tỷ USD, giảm 15,9% so với 2022.
Về thị trường, năm 2023, Việt Nam xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang gần 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của ngành vào 5 thị trường chính, gồm: Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và EU đạt trên 11,74 tỷ USD, chiếm trên 89,13% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng sang các thị trường này giảm từ 12% đến 30% so với năm 2022.
"Mặc dù kim ngạch xuất khẩu vào hầu hết các thị trường giảm, kim ngạch từ thị trường Ấn Độ và Indonesia lại tăng mạnh. Năm 2023 kim ngạch xuất khẩu sang Ấn Độ đạt trên 122,02 triệu USD, tăng 292,1% so với 2022, kim ngạch từ Indonesia đạt gần 86,63 triệu USD, tăng 123,3% so với năm 2022".
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam.
Mỹ là thị trường lớn nhất cho xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu năm 2023 đạt trên 7,1 tỷ USD, giảm 16,3 % so với năm 2022, chiếm 53,9% giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào tất cả các thị trường. Năm 2023 Việt Nam xuất tổng số 6,38 tỷ USD các mặt hàng đồ gỗ (HS 9401 và HS 9403) vào thị trường Mỹ - chiếm 90% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này; 10% còn lại là nhóm gỗ và sản phẩm nguyên liệu khác thuộc nhóm HS 44.
Trung Quốc là thị trường lớn thứ hai, đạt trên 1,73 tỷ USD, giảm 20,4% so với năm 2022, chiếm 13,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chính sang Trung Quốc chủ yếu thuộc nhóm gỗ và sản phẩm nguyên liệu gỗ (HS 44) với kim ngạch 1,68 tỷ USD, chiếm trên 97,2% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường này.
Đứng ở vị trí thứ ba là Nhật Bản, đạt trên 1,65 tỷ USD, giảm 12,5% so với năm 2022, chiếm 12,6% giá trị xuất khẩu. Nhóm mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản là gỗ và sản phẩm nguyên liệu gỗ (HS 44), kim ngạch 1,27 tỷ USD, chiếm tới 76,9% tổng kim ngạch xuất khẩu hỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản.
Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ tư của Việt Nam, chiếm 6,1% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ của cả nước. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 796,81 triệu USD, giảm 21,3% so với năm 2022.
EU là thị trường xuất khẩu quan trọng đứng thứ năm của ngành gỗ Việt Nam, đồng thời là thị trường có yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng cũng như nguồn gốc hợp pháp của gỗ. Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đạt 455,52 triệu USD, giảm 29,5% so với năm 2022, chiếm 3,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Mặt hàng chính xuất khẩu sang EU thuộc về nhóm đồ gỗ (HS 9401 và HS 9403) đạt 356,32 triệu USD, chiếm 78,2% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
GHẾ NHỒI ĐỆM SẼ LÀ "NHÂN TỐ CHÍNH" CHO NGÀNH GỖ TRONG NĂM 2024
Đồ gỗ nội thất, ghế ngồi, dăm gỗ, gỗ dán, viên nén là 5 trong số các mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn trong năm 2023, đạt 11,91 tỷ USD, chiếm 90,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành.
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trong năm 2023 đạt 5,29 tỷ USD, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm 2022; chiếm tới 40,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Trong đó, bộ phận đồ gỗ (HS 9403.90) xuất khẩu 1,04 tỷ USD, giảm 28,6% so với năm 2022, chiếm tỷ trọng 19,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng đồ gỗ.
Đối với đồ gỗ nội thất phòng ngủ (HS 9403.50), Việt Nam xuất khẩu 1,18 tỷ USD trong năm 2023, giảm 18,7% so với năm 2022, chiếm 22,5% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng đồ gỗ.
Đồ gỗ nội thất phòng bếp (HS 9403.40) có kim ngạch xuất khẩu 970,26 triệu USD trong năm 2023, giảm 8,2% so với năm 2022, chiếm 18,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng đồ gỗ. Ở nhóm nội thất văn phòng (HS 9403.30), kim ngạch đạt gần 254,27 triệu USD, giảm 28,6% so với năm 2022, chiếm 4,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng đồ gỗ.
"Riêng mặt hàng ghế nhồi đệm đem về kim ngạch xuất khẩu lên tới 1,87 tỷ USD trong năm 2023, chiếm 65,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng ghế ngồi. Trong khi hầu hết các sản phẩm đồ gỗ đều suy giảm kim ngạch xuất khẩu, thì xuất khẩu ghế nhồi đệm lại tăng 9,1% so với năm 2022. Ghế nhồi đêm được coi là một trong những nhân tố chính cho ngành gỗ trong những năm tới".
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản.
Kim ngạch xuất khẩu ghế ngồi của Việt Nam trong năm 2023 đạt 2,83 tỷ USD, chiếm 21,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Trong đó: Ghế đã nhồi đệm (HS 9401.6100) đạt 1,87 tỷ USD, chiếm 65,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng ghế ngồi, tăng 9,1% so với năm 2022.
Ghế có tựa lưng (HS 9401.6910) đạt 9,5 triệu USD, chỉ chiếm 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng ghế ngồi, giảm 50,7% so với năm 2022. Ghế ngồi loại khác (HS 9401.6990) đạt 539,9 triệu USD, chiếm 19,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng ghế ngồi, giảm 32,1% so với năm 2022. Bộ phận ghế ngồi, loại khác (HS 9401.9099) đạt 401,51 triệu USD, chiếm 14,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng ghế ngồi, giảm 12,4% so với năm 2022.
Mặt hàng ván bóc xuất khẩu đạt gần 1,12 triệu m3 về lượng và 219,92 triệu USD về giá trị trong năm 2023, chiếm 1,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ. Giá trị xuất khẩu mặt hàng gỗ dán trong năm 2023 đang chiếm 6,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ, tăng 1,2% về lượng nhưng lại giảm 14,2% về giá trị so với năm 2022.
Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu gần 14,42 triệu tấn dăm, đạt 2,22 tỷ USD, giảm 8,8% về lượng và 20,4 về giá trị so với năm 2022, chiếm 16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu dăm lớn nhất của Việt Nam, tiếp đến là thị trường Nhật Bản và đứng thứ 3 là thị trường Hàn Quốc.
Tổng lượng viên nén Việt Nam xuất khẩu trong năm 2023 đạt 4,67 triệu tấn, tương đương 679,59 triệu USD, giảm 4,3% về lượng và 13,7% về giá trị so với năm 2022, chiếm 5,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ. Sản phẩm viên nén của Việt Nam được xuất khẩu sang 22 quốc gia và vùng lãnh thổ trong năm 2023, nhưng hai thị trường xuất khẩu viên nén lớn nhất là Hàn Quốc và Nhật Bản.
Năm 2023, lượng và giá trị xuất khẩu viên nén sang hai quốc gia này chiếm 96,6% về lượng và 96% về giá trị xuất khẩu viên nén của Việt Nam. Ngoài ra, EU là thị trường xuất khẩu viên nén đứng thứ ba của Việt Nam trong năm 2023, với lượng đạt 155,11 nghìn tấn, ứng với 25,91 triệu USD, chiếm 3,3% về lượng và 3,8% về giá trị viên nén Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường.
Gỗ keo lá tràm sẽ trở thành nguyên liệu chính cho sản xuất đồ gỗ và xuất khẩu của Việt Nam.
Tại hội thảo, nêu lên nhân tố mới tạo đột phá trong chuyển đổi ngành gỗ việt Nam, TS. Tô Xuân Phúc, Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách thương mại lâm sản, Tổ chức Forest Trends (Mỹ), cho rằng gỗ keo tràm (Acacia) trong nước có tiềm năng thay thế nguồn gỗ rủi ro nhập khẩu, tạo ra sự đột phá để chuyển đổi ngành gỗ Việt trong tương lai.
Dư địa để mở rộng sử dụng gỗ keo tràm hiện rất lớn. Tuy nhiên, sử dụng gỗ keo tràm để chuyển đổi ngành gỗ Việt sẽ không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà đòi hỏi có các cơ chế, chính sách và hành động cụ thể từ các cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp trong ngành.
Theo TS. Tô Xuân Phúc, hiện mỗi năm Việt Nam nhập khoảng 2-3 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ là gỗ nhiệt đới từ các nước Châu Phi, Lào, Campuchia, Papua New Guinea… Nguồn gỗ này có rủi ro làm mất rừng và suy thoái rừng, đang tạo ra những tác động tiêu cực tới hình ảnh của ngành gỗ Việt.
Hiện cả nước có khoảng 4,5 triệu ha diện tích rừng trồng, trong đó diện tích keo tràm chiếm khoảng 70-80%, phần còn lại tập trung vào các loài bạch đàn, thông và mỡ. Việc sử dụng gỗ keo tràm trong tương lai có thể tạo ra động lực chuyển đổi ngành gỗ Việt Nam, trên cơ sở Việt Nam nỗ lực mở rộng diện tích rừng trồng.
Thứ nhất, Nhà nước đang có hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho người rồng rừng, tập trung vào các loài keo tràm nhằm khuyến khích trồng và mở rộng các diện tích rừng trồng gỗ lớn, có chứng chỉ.
Thứ hai, gỗ keo tràm ngày càng phổ biến, được thị trường chấp nhận và hiện đang được sử dụng rộng rãi tạo các sản phẩm đầu ra, bao gồm các mặt hàng đồ gỗ nội ngoại thất (furniture), ván, dăm gỗ và viên nén. Loại gỗ này ngày càng được thị trường bao gồm xuất khẩu và nội địa chấp nhận.
Gỗ keo lá tràm sẽ trở thành nguyên liệu chính cho sản xuất đồ gỗ và xuất khẩu của Việt Nam.
Tại hội thảo, nêu lên nhân tố mới tạo đột phá trong chuyển đổi ngành gỗ việt Nam, TS. Tô Xuân Phúc, Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách thương mại lâm sản, Tổ chức Forest Trends (Mỹ), cho rằng gỗ keo tràm (Acacia) trong nước có tiềm năng thay thế nguồn gỗ rủi ro nhập khẩu, tạo ra sự đột phá để chuyển đổi ngành gỗ Việt trong tương lai. Dư địa để mở rộng sử dụng gỗ keo tràm hiện rất lớn. Tuy nhiên, sử dụng gỗ keo tràm để chuyển đổi ngành gỗ Việt sẽ không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà đòi hỏi có các cơ chế, chính sách và hành động cụ thể từ các cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp trong ngành.Theo TS. Tô Xuân Phúc, hiện mỗi năm Việt Nam nhập khoảng 2-3 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ là gỗ nhiệt đới từ các nước Châu Phi, Lào, Campuchia, Papua New Guinea… Nguồn gỗ này có rủi ro làm mất rừng và suy thoái rừng, đang tạo ra những tác động tiêu cực tới hình ảnh của ngành gỗ Việt.Hiện cả nước có khoảng 4,5 triệu ha diện tích rừng trồng, trong đó diện tích keo tràm chiếm khoảng 70-80%, phần còn lại tập trung vào các loài bạch đàn, thông và mỡ. Việc sử dụng gỗ keo tràm trong tương lai có thể tạo ra động lực chuyển đổi ngành gỗ Việt Nam, trên cơ sở Việt Nam nỗ lực mở rộng diện tích rừng trồng.Thứ nhất, Nhà nước đang có hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho người rồng rừng, tập trung vào các loài keo tràm nhằm khuyến khích trồng và mở rộng các diện tích rừng trồng gỗ lớn, có chứng chỉ. Thứ hai, gỗ keo tràm ngày càng phổ biến, được thị trường chấp nhận và hiện đang được sử dụng rộng rãi tạo các sản phẩm đầu ra, bao gồm các mặt hàng đồ gỗ nội ngoại thất (furniture), ván, dăm gỗ và viên nén. Loại gỗ này ngày càng được thị trường bao gồm xuất khẩu và nội địa chấp nhận.
Đọc thêm
Công nghiệp TP.HCM tăng tốc sau hợp nhất, IIP 7 tháng tăng gần 6%
7 tháng đầu năm, chỉ số công nghiệp của TP.HCM tăng gần 6% so với cùng kỳ, trong bối cảnh mở rộng địa giới sau sáp nhập cùng với đà tăng trưởng của các ngành công nghiệp trọng điểm...
VCCI kiến nghị bãi bỏ, thu hẹp 21 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư năm 2020 có xu hướng tăng lên qua các năm. Số lượng ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện lớn hơn rất nhiều so với số lượng trong Danh mục...
Kinh tế Cần Thơ khởi sắc, quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng cả năm đạt 10%
7 tháng đầu năm 2025, Cần Thơ duy trì đà tăng trưởng tích cực ở hầu hết các lĩnh vực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ yêu cầu tập trung nguồn lực, giải pháp quyết liệt để đạt mục tiêu tăng trưởng trên 10% cả năm…
Điều chỉnh ứng phó thiên tai trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp
Từ ngày 1/7/2025, hệ thống chính quyền địa phương chuyển sang mô hình 2 cấp, đặt cấp xã vào tuyến đầu phòng chống thiên tai. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực cơ sở, ứng dụng công nghệ và gắn kết chặt chẽ tỉnh – xã – cộng đồng để chủ động ứng phó trước thiên tai ngày càng cực đoan…
Nghệ An dự kiến tăng hỗ trợ vận tải container qua Cảng Cửa Lò
Ban Quản lý Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An đang xây dựng và lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân về dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh này quy định chính sách hỗ trợ hãng tàu quốc tế, nội địa và doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng container qua Cảng Cửa Lò giai đoạn 2026 – 2028. Đây là động thái nhằm duy trì tuyến container cố định, tăng sức hấp dẫn của Cảng Cửa Lò và nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hóa xuất nhập khẩu của địa phương.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: