Chi phí logistics của Việt Nam hiện bằng khoảng 20% GDP, cao gấp 2 lần mức trung bình của thế giới và khu vực. Điều này làm phương hại lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô, sức cạnh tranh và sức hấp dẫn đầu tư của nền kinh tế. Vì vậy, kéo giảm chi phí logistics trở thành một đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế...
Chuỗi dịch vụ logistics bao gồm nhiều khâu tác nghiệp nối tiếp nhau do các doanh nghiệp tổ chức và vận hành. Vai trò của Nhà nước là tạo lập thị trường.
Dẫu vậy, suốt nhiều năm qua, chúng ta đã rất lúng túng, không chỉ ra cho đúng, cho trúng rằng nỗ lực nào mang tính quyết định và cơ quan quản lý nhà nước nào là nhạc trưởng trong “giàn đồng ca” kéo giảm chi phí logistics cho nền kinh tế.
QUY MÔ VÀ KHÔNG GIAN TÁC ĐỘNG
Khi Ngân hàng Thế giới (WB) thông báo và so sánh, chi phí logistics của Việt Nam bằng 20% GDP, đã hàm ý đây là chi phí lưu thông vật tư và hàng hóa liên quan tới quá trình làm ra và tiêu thụ tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nói khác đi, có thể hiểu chi phí logistics mà WB đưa ra lần đầu và Việt Nam vẫn thường nhắc tới chỉ là chi phí lưu thông hàng hóa diễn ra trong phạm vi lãnh thổ.
Dù trong đó có bao gồm chi phí dùng cho dịch vụ lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu, thì cũng chỉ tính cho các cung chặng đến và đi của hàng hóa đó từ cầu tàu hoặc từ cửa khẩu. Còn dịch vụ vận tải hàng hóa xuất, nhập khẩu diễn ra bên ngoài lãnh thổ, trên các chuyến tàu viễn dương hay trên các đoàn tàu đường sắt liên vận quốc tế chở hàng, nếu như chúng được thực hiện bởi các chủ thể mang quốc tịch Việt Nam, thì lại thuộc vào phạm trù tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Bằng không, đó lại là chi phí mất không cho các đối tác nước ngoài.
GS.TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Như vậy, chi phí logistics do WB thông báo và được Việt Nam thường xuyên đề cập chưa phải là tất cả chi phí lưu thông vật tư và hàng hóa của nền kinh tế. Cụ thể là chi phí đó chưa bao gồm chi phí phải trang trải cho dịch vụ lưu thông hàng hóa xuất, nhập khẩu diễn ra ở bên ngoài lãnh thổ.
Để phân biệt và thuận tiện cho việc diễn giải, chúng ta gọi chi phí logistics theo như WB thông báo là chi phí logistics (hoặc chi phí logistics nội địa), còn chi phí logistics cho dịch vụ lưu thông hàng hóa xuất, nhập khẩu diễn ra ở bên ngoài lãnh thổ được gọi là chi phí logistics bên ngoài lãnh thổ. Tổng chi phí logistics mà một đơn vị hàng hóa xuất, nhập khẩu gánh chịu là tổng hai loại chi phí logistics nói trên.
Bản tin Tài chính Việt Nam từng trích dẫn một ví dụ từ báo cáo “Logistics và hiệu quả, chìa khóa để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh – Định hướng phát triển của các quốc gia trong khu vực” do WB công bố: Để vận chuyển một container 40 Feet từ Việt Nam đi Los Angeles (Hoa Kỳ), tổng chi phí hết 2.432 USD. Tuy nhiên, phần chi phí logistics nội địa phải trả cho chiếc container đó chỉ là 572 USD, tương đương 23%. Còn lại 1.860 USD, tức là 77% tổng chi phí đó là để trả cho các hãng tàu. Vậy là chi phí logistics cho một container xuất, nhập khẩu trên các cung chặng viễn dương lớn hơn nhiều lần chi phí logistics phải trả cho chiếc container đó đi trong nội địa.
Tổng chi phí logistics của nền kinh tế nếu cộng cả phần chi phí logistics bên ngoài lãnh thổ sẽ là lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta thường đề cập. Điều đó đặt ra một thách thức rất lớn đối với một nền kinh tế mở như nền kinh tế Việt Nam, khi mà tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu lớn gấp hai lần GDP của nền kinh tế. Bởi vì, ngoài những nỗ lực kéo giảm chi phí logistics nội địa, còn phải tìm cách kéo giảm chi phí logistics bên ngoài lãnh thổ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, nhằm tiết giảm tối đa chi phí cho cả hai khâu đầu vào và đầu ra của nền kinh tế.
TRÁCH NHIỆM TẠI KHÂU TÁC NGHIỆP
Chuỗi dịch vụ logistics bao gồm nhiều khâu tác nghiệp nối tiếp nhau, đó là: (i) thăm dò, tìm kiếm thị trường, giao dịch và ký kết hợp đồng; (ii) thu gom, phân loại, đóng gói và chuyển giao hàng hóa; (iii) lưu kho, lưu bãi; khai báo hải quan, nộp thuế, nộp phí, xử lý các thủ tục pháp lý, nếu chẳng may có tranh chấp xẩy ra; (iv) vận tải và xếp dỡ.
Ba khâu tác nghiệp đầu được coi là các khâu tác nghiệp mềm, bởi chúng không đòi hỏi nhiều trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, mà chủ yếu là nghiệp vụ hành chính, giấy tờ. Trên thực tế, chi phí cho các khâu tác nghiệp mềm thường không vượt quá 20% tổng giá trị chi phí logistics. Còn khâu tác nghiệp cuối cùng, vận tải và xếp dỡ, được gọi là khâu tác nghiệp cứng, đòi hỏi sự đầu tư và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức to lớn, bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của quốc gia, cùng với tập hợp các loại hình phương tiện vận tải, thiết bị xếp dỡ hiện đại, đắt tiền… Trên thực tế, vận tải và xếp dỡ là khâu tiêu hao chi phí nhiều nhất, thường chiếm trên dưới 80% tổng giá trị của chuỗi chi phí logistics.
Như vậy, địa chỉ trách nhiệm kéo giảm chi phí logistics cho các khâu tác nghiệp mềm, hoàn toàn thuộc về các doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước chỉ là tạo lập thị trường (như thương thảo và ký kết các FTA…); tạo lập các hành lang pháp lý; hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp khi cần thiết. Còn lại, các doanh nghiệp phải tự thực hiện các khâu tác nghiệp nói trên theo lẽ “lời ăn, lỗ chịu”.
Nhưng để kéo giảm chi phí cho khâu tác nghiệp cứng là vận tải và xếp dỡ, thì vai trò của Nhà nước là yếu tố quyết định. Hay nói cách khác, địa chỉ trách nhiệm trong việc kéo giảm chi phí vận tải và xếp dỡ của chuỗi dịch vụ logistics, chủ yếu thuộc về các cơ quan nhà nước.
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 42 phát hành ngày 17-10-2022. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/27
Cùng chuyên mục
Cơ hội để hàng Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Campuchia
Căng thẳng biên giới Campuchia – Thái Lan đã đi vào ổn định, hai bên đã đạt được các thoả thuận, đây là "cơ hội thứ hai" để hàng Việt Nam xây dựng thương hiệu tại Campuchia.
Xuất khẩu nông sản: Giữ vững thị trường trọng điểm, mở rộng thị trường mới
Trong 5 tháng cuối năm 2025, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản sẽ tập trung giữ thị trường truyền thống, mở rộng thị trường mới, ưu tiên tăng giá trị gia tăng qua chế biến sâu, tìm đầu ra cho hàng hóa tại Hoa Kỳ. Với đà tăng và giải pháp đồng bộ, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường kỳ vọng sẽ cán đích mục tiêu xuất khẩu trên 65 tỷ USD và tạo nền tảng bền vững cho các năm sau…
Quy định mới về khai thác, tận thu, thu hồi khoáng sản và đóng cửa mỏ
Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành hàng loạt quy định mới về địa chất và khoáng sản, bao gồm hướng dẫn thủ tục, quy trình và văn bản liên quan đến điều tra, khai thác, tận thu khoáng sản, đóng cửa mỏ và đấu giá quyền khai thác...
Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam muốn mở rộng thu mua nội địa
Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đang ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng kỳ vọng vào thị trường nội địa Việt Nam và có mong muốn xuất khẩu nhiều hơn từ đây...
Xuất khẩu cá tra có cơ hội tăng trưởng mạnh
Trong bối cảnh Brazil bị Mỹ công bố áp thuế quan lên tới 50%, không ít nhà nhập khẩu mặt hàng cá thịt trắng tại Mỹ được cho là đang chuyển hướng sang nhập khẩu cá tra từ Việt Nam để thay thế cho nguồn hàng cá rô phi Brazil. Dự báo xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ có cơ hội tăng trưởng mạnh…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: