Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), cho rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp hỗ trợ.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI, chiếm 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành.
KHOẢNG TRỐNG THỊ TRƯỜNG VẪN LỚN
Năm 2024, riêng ngành chế biến - chế tạo đã thu hút hơn 25,5 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới, chiếm gần 67% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Các lĩnh vực như sản xuất linh kiện điện tử, cơ khí chính xác, phụ tùng ô tô – xe máy điện… đang được nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp FDI chú trọng hỗ trợ và phát triển.
Mặc dù vậy, bức tranh công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn chưa sáng. Số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước gần 88% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu, thiếu tiêu chuẩn chất lượng. Chỉ khoảng 10% doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa và dưới 20% đạt chứng nhận ISO hoặc áp dụng các mô hình quản trị hiện đại như 5S, Lean, TQM (quản lý chất lượng toàn diện).
Điều này dẫn đến một thực trạng đáng lo ngại khi phần lớn các doanh nghiệp nội địa mới chỉ tham gia ở các công đoạn gia công cấp thấp, khó tiếp cận các đơn hàng quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ các tập đoàn đầu chuỗi.
Hệ quả là tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp chủ lực vẫn còn ở mức thấp. Ngành ô tô chưa đạt được mục tiêu nội địa hóa 40%, trong khi ngành điện tử, dù có sự hiện diện của nhiều tập đoàn lớn, tỷ lệ linh kiện được sản xuất tại Việt Nam còn rất hạn chế. Tỷ lệ nội địa hóa của các ngành dệt may – da giày đạt khoảng 45-50%, cơ khí chế tạo 15-20%,và lắp ráp ô tô từ 5-20%.
“Khoảng hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam đang hoạt động nhưng mới chỉ mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng cho sản xuất trong nước”, ông Phú nói.
Thực tế này cho thấy một khoảng trống lớn trong hệ sinh thái công nghiệp, đặc biệt là nhu cầu bức thiết về đầu tư có chiều sâu vào lĩnh vực này để gia tăng giá trị sản xuất trong nước.
Trong khi đó, công tác xúc tiến đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ mới chủ yếu dừng ở các hoạt động tổng hợp, thiếu tính chuyên biệt, chưa tạo được cơ chế kết nối thực chất giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt là trong việc tiếp nhận công nghệ và tiêu chuẩn sản xuất toàn cầu.
KỲ VỌNG TỪ DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN
Trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) năm 2024 cho thấy đã có một làn sóng dịch chuyển sản xuất rõ rệt từ Trung Quốc sang ASEAN và Việt Nam là một trong những điểm đến nổi bật nhất. Các doanh nghiệp Nhật Bản đang ngày càng kỳ vọng vào thị trường nội địa Việt Nam và có ý định xuất khẩu nhiều hơn.
Ông Takahiro Kono, Giám đốc dự án, JETRO tại Hà Nội, cho biết số lượng doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng vào thị trường Việt Nam đang tăng lên. Điều này được thể hiện rõ qua việc ngành bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các dự án đầu tư mới được cấp phép.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng đang chú trọng mở rộng chức năng sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sang các nước khác. Trong chuỗi cung ứng, việc có thể thu mua tại chỗ (nội địa hóa) đã trở thành một yếu tố ngày càng quan trọng.
Khảo sát cho thấy 50,9% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam muốn mở rộng thu mua nội địa, đây là con số cao nhất trong khối ASEAN. Con số này cũng đã tăng 7,7 điểm phần trăm so với năm trước, càng khẳng định ý chí nội địa hóa đang ngày càng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa hiện tại của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam mới chỉ đạt 36,6%. Trong đó, tỷ lệ thu mua từ các doanh nghiệp Việt Nam chỉ là 15,7%.
Để thúc đẩy việc thu mua nội địa, việc tìm kiếm các doanh nghiệp Việt Nam có đủ năng lực để trở thành nhà cung cấp cho doanh nghiệp Nhật Bản là vô cùng quan trọng. Song khó khăn trong việc thu mua nội địa từ doanh nghiệp Việt Nam, đó là chất lượng và trình độ kỹ thuật của các nhà cung cấp nội địa chưa đáp ứng được yêu cầu.
Với gần 30 năm kinh nghiệm sản xuất linh kiện hàng không tại Nhật Bản, sang đầu tư tại Việt Nam ông Masaru Onaga, CEO Công ty TNHH Onaga Việt Nam chia sẻ thách thức lớn với họ là việc các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên thay đổi lịch trình làm việc, khiến tiến độ không đi theo kế hoạch.
Ngoài ra, việc giải thích về ý nghĩa và sự cần thiết của các tiêu chuẩn chất lượng như AS9100 gặp nhiều trở ngại. Các văn bản dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt thường có những khác biệt nhỏ về ý nghĩa, gây khó hiểu. Ông đề xuất cần có một bản dịch chính thức từ tiếng Anh sang tiếng Việt để việc truyền đạt các yêu cầu chi tiết của tiêu chuẩn AS9100 dễ dàng hơn.
Ông Onaga cũng bày tỏ mong muốn các công ty Việt Nam và Chính phủ hỗ trợ chi phí để xin chứng nhận AS9100 - một chứng chỉ cần thiết để sản xuất linh kiện cho lĩnh vực hàng không, bán dẫn.
Mặt khác, ông Onaga cũng nêu ra những đề xuất cụ thể đối với chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Đó là thống nhất và chuẩn hóa thủ tục, cần có sự thống nhất về định dạng và biểu mẫu hồ sơ phải nộp, cũng như hướng dẫn điền thông tin một cách chính xác để tránh việc nộp đi nộp lại, kéo dài thời gian hoàn tất thủ tục.
“Chính phủ hai bên cần hợp tác xây dựng các biểu mẫu và chuẩn hóa thủ tục, giúp nhà đầu tư biết cần bắt đầu từ đâu và làm những gì. Điều này sẽ tạo ra sự tin cậy đối với các doanh nghiệp Nhật Bản”, ông Onaga bày tỏ mong muốn.
Hơn nữa, cần đảm bảo sự thống nhất trong các cấp quản lý, tránh tình trạng hồ sơ được nhân viên phụ trách thông qua nhưng lại bị cấp trên từ chối.
Đồng thời, các cơ quan giải quyết hồ sơ cần cung cấp danh sách kiểm tra giúp doanh nghiệp biết mình còn thiếu hay sai sót gì trong hồ sơ đã nộp. Cũng như đơn giản hóa quy trình thủ tục hành chính, để các doanh nghiệp Nhật Bản không cần thông qua công ty tư vấn mà vẫn có thể tự thực hiện thủ tục.