Áp lực chính sách
Chuyển đổi năng lượng xanh là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh cũng như thực hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biển đổi khí hậu (COP26); đồng thời cũng là cơ hội để ngành giao thông vận tải có sự phát triển đồng bộ theo hướng hiện đại hóa và bền vững, bắt kịp với xu thế và trình độ phát triển tiên tiến của thế giới.
Chuyển đổi năng lượng xanh trong ngành giao thông vận tải có nền tảng là sự chuyển đổi công nghệ mạnh mẽ, cần dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việc thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh của ngành giao thông vận tải cần xây dựng lộ trình hợp lý, phù hợp với khả năng huy động nguồn lực, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và bền vũng trong thực hiện thông qua các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể.
Đặc biệt, Chính phủ yêu cầu huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh của ngành giao thông vận tải. Khẩn trương bổ sung, sửa đổi thể chế, chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho tiếp nhận các dòng vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, tạo động lực để huy động sự tham gia của toàn xã hội cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào quá trình thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh của ngành giao thông vận tải.
Trong lộ trình chuyển đổi xanh, Chính phủ yêu cầu trong giai đoạn 2022 – 2030 sẽ thúc đẩy sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và chuyển đổi sử dụng các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ sử dụng điện; mở rộng phối trộn, sử dụng 100% xăng E5 đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Phát triển hạ tầng sạc điện đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Khuyến khích các bến xe, trạm dừng nghỉ xây dựng mới và hiện hữu chuyển đổi theo tiêu chí xanh.
Trong giai đoạn 2031 – 2050, đến năm 2040 sẽ từng bước hạn chế tiến tới dừng sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch để sử dụng trong nước. Đến năm 2050, 100% phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy thi công tham gia giao thông chuyển đổi sang sử dụng điện, năng lượng xanh. Toàn bộ các các bến xe, trạm dừng nghỉ đạt tiêu chí xanh; chuyển đổi toàn bộ máy móc, trang thiết bị xếp, dỡ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng điện, năng lượng xanh. Hoàn thiện hạ tầng sạc điện, cung cấp năng lượng xanh trên phạm vi toàn quốc đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.
Không chỉ thế, tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, hiện chính quyền cũng đang triển khai các biện pháp mạnh mẽ để hạn chế và tiến tới cấm xe xăng. Thị trường xe ô tô động cơ đốt trong sẽ là đối tượng nằm trong diện bị tác động rất mạnh trên nhiều phương diện.
Áp lực từ “cơn bão” xe điện
Sự lấn lướt của xe điện có thể thấy rõ trên bảng xếp hạng doanh số xe bán chạy nhất trong nhiều tháng gần đây. Các hãng xe ngoại cũng nhận thấy xu thế này nên đã “tiếp sức” gây sức ép lên xe động cơ đốt trong với hàng loạt mẫu xe điện liên tục được đưa về thị trường Việt thời gian qua, tạo ra sức ép cạnh tranh trực tiếp lên doanh số của xe xăng/dầu truyền thống.
Bên cạnh đó, hiện xe điện tại Việt Nam đang được nhận chính sách ưu đãi về thuế, phí trước bạ, giúp giảm giá thành và tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Không chỉ thế, hãng xe nội địa VinFast còn liên tục tung ra nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn để thúc đẩy chuyển đổi xanh hay miễn phí sạc… càng khiến cho nhóm xe động cơ đốt trong truyền thống đứng ngồi không yên.
Thị trường Việt hiện cũng thay đổi rất nhanh, người tiêu dùng đặc biệt là giới trẻ và cư dân thành thị ngày càng quan tâm đến các dòng xe "xanh" để góp phần bảo vệ môi trường và tận dụng lợi ích kinh tế (giảm chi phí nhiên liệu), các hãng sản xuất xe động cơ đốt trong tại Việt Nam đang buộc phải chấp nhận một thực tế đó là phải tìm ra sách lược để tồn tại hoặc sẽ bị đánh bật khỏi thị trường.
" />
Đầu tiên là ở thời điểm hiện tại, cơ sở hạ tầng phục vụ cho các loại xe điện hiện đang trong quá trình phát triển và chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu trên toàn quốc, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa nên tâm lý của nhiều người dân vẫn lựa chọn xe xăng.
Tiếp đến, chi phí ban đầu cho xe điện và đặc biệt là những lo lắng về vấn đề pin vẫn còn là rào cản lớn với nhiều người tiêu dùng.
Bên cạnh đó là thói quen sử dụng của người Việt lâu nay đã quen thuộc với việc sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa xe động cơ đốt trong và mạng lưới trạm xăng dầu dày đặc phủ sóng khắp toàn quốc.
Ngoài ra, trên thế giới các hãng xe lớn cũng vẫn còn nhiều tranh cãi khi đang tìm cách "cứu" động cơ đốt trong bằng cách phát triển các công nghệ mới như nhiên liệu trung hòa carbon (e-fuel, nhiên liệu tổng hợp v.v…), nhằm kéo dài vòng đời của xe ICE. Những thông tin này ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới tâm lý người tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh rằng thị trường xe xăng Việt Nam sắp trải qua một sự biến động rất lớn từ nhà sản xuất, nhà phân phối đến xu hướng tiêu dùng.
Theo báo cáo của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) trong năm 2024, doanh số bán hàng của các thành viên VAMA đạt 340.142 xe, tăng 12,6% so với năm 2023.
Trong khi đó, nếu tính tổng doanh số công bố riêng của TC Motor và VinFast, thị trường ô tô Việt Nam đã tiêu thụ 494.310 chiếc trong năm. Trong đó, đáng chú ý là VinFast lập kỷ lục doanh số đạt hơn 87.000 xe điện trong năm 2024.
Trong 6 tháng đầu năm 2025 tổng doanh số bán ô tô của các thành viên thuộc VAMA đạt 163.021 xe, tăng 28.137 xe tương đương 21% so với cùng kỳ năm 2024.
VinFast tháng 9 vừa qua cũng đã chính thức trở thành thương hiệu ô tô đầu tiên tại thị trường Việt Nam vượt mốc 100.000 xe bán ra chỉ sau 3 quý đầu năm. Đây là kết quả sau 11 tháng liên tục “bán chạy nhất Việt Nam” với thị phần ngày càng tăng của hãng xe này. Vấn đề đáng nói là kỷ lục doanh số của VinFast là chỉ báo quan trọng, cho thấy xe điện đã trở thành xu hướng tiêu dùng chủ đạo tại Việt Nam.
Khi các chính sách mới trong lộ trình chuyển đổi xanh tại Việt Nam có hiệu lực, thị trường chắc chắn sẽ có sự phân hoá rõ rệt khi các hãng đầu tư mạnh vào xe điện sẽ lên ngôi, trong khi các hãng chỉ tập trung vào xe xăng suốt thời gian dài lâu nay sẽ khó lòng cạnh tranh. Bài toán lớn đặt ra với các hãng xe sản xuất động cơ đốt trong ở trong thời gian tới đó là phải “thay đổi nhanh để tồn tại”. Nếu không có chiến lược phù hợp và thức thời, trước xu hướng di chuyển "xanh" không thể đảo ngược tại Việt Nam, việc mất thị phần và bị “đánh bật” khỏi thị trường là điều hoàn toàn có thể xảy ra với các hãng xe sản xuất động cơ đốt trong.