Chiến thuật chia rẽ EU của Trung Quốc

Lê Vũ
Mặc dù sử dụng nhiều phương án hoạt động vận động hành lang nhằm chia rẽ các nước trong khối EU để chặn thuế quan EV mới nhưng EU vẫn áp mức thuế rất cao. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã sẵn sàng tìm phương án để làm suy yếu EU.

Các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu ủng hộ việc cho phép Ủy ban châu Âu tăng thuế quan lên tới 35,3% đối với xe điện chạy bằng pin (BEV) của Trung Quốc. Các mức thuế mới dự kiến ​​sẽ có hiệu lực vào ngày 31 tháng 10 sắp tới. Mặc dù quyết định này cho thấy sự liên kết ngày càng tăng với Mỹ, nhưng vẫn có những khác biệt quan trọng về bối cảnh khiến việc phối hợp xuyên Đại Tây Dương về các hoạt động kinh tế của Trung Quốc trở nên cần thiết hơn.

Washington và Brussels khác nhau như thế nào?

Chiến thuật chia rẽ EU của Trung Quốc - Ảnh 1

Mỹ và EU đã tiếp cận vấn đề này từ những điểm khởi đầu rất khác nhau. Không giống như EU, Mỹ đã điều hướng quá trình này suôn sẻ hơn vì các biện pháp này mang tính phòng ngừa. Mỹ tiếp xúc trước với hoạt động nhập khẩu BEV của Trung Quốc hoặc xuất khẩu BEV của Hoa Kỳ sang Trung Quốc, giúp họ đưa ra quyết định dễ dàng hơn.

Vào tháng 5, chính quyền của ông Biden đã công bố một loạt thuế quan đối với các sản phẩm Trung Quốc trong các lĩnh vực chiến lược, bao gồm tăng thuế suất đối với BEV của Trung Quốc từ 25% lên 100% theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974. Chính quyền Mỹ lập luận rằng các khoản trợ cấp của chính phủ Trung Quốc trong ngành đó góp phần vào các hoạt động không công bằng, phi thị trường sẽ đe dọa ngành công nghiệp ô tô Mỹ và việc làm của người Mỹ.

Canada đã làm theo sau một vài tháng sau đó, công bố tăng thuế suất từ ​​6,1% lên 100% đối với hàng nhập khẩu BEV của Trung Quốc. Và gần đây hơn, vào cuối tháng 9, Bộ Thương mại Mỹ đã đề xuất các quy tắc sẽ "cấm bán hoặc nhập khẩu các loại xe kết nối tích hợp một số công nghệ nhất định và nhập khẩu các thành phần cụ thể từ các quốc gia đáng quan tâm, cụ thể là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Nga" do lo ngại về an ninh quốc gia.

Trong khi Mỹ đã chuyển từ thuế quan sang các vấn đề an ninh quốc gia liên quan đến xe điện, thì EU lại hành động chậm hơn một cách dễ hiểu. Điều này là do các quốc gia thành viên có các ưu tiên khác nhau, nhiều quốc gia trong số đó đã phải chịu ảnh hưởng đáng kể từ Trung Quốc trong lĩnh vực này. Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen đã công bố việc khởi động cuộc điều tra chính thức của Ủy ban Châu Âu một năm trước, tuyên bố rằng sự lãnh đạo và đổi mới của EU trong lĩnh vực BEV "đang bị cản trở bởi sự bóp méo thị trường và cạnh tranh không lành mạnh" của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhu cầu được các quốc gia thành viên chấp thuận đã khiến quyết định của EU về vấn đề này trở nên căng thẳng hơn, dẫn đến sự xuất hiện của hai phe phái chính. Một nhóm, do bà von der Leyen và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đứng đầu, ủng hộ việc tăng thuế quan để giải quyết tình trạng bóp méo thị trường. Nhóm còn lại, chủ yếu do Thủ tướng Đức Olaf Scholz đứng đầu và được ngành công nghiệp ô tô Đức ủng hộ, là đồng minh bên trong của Bắc Kinh, phản đối các biện pháp này, phần lớn là do sự tiếp xúc quá mức với thị trường Trung Quốc. Không giống như tình hình của Mỹ, kết quả của cuộc bỏ phiếu ngày 4 tháng 10 cũng không nên được hiểu là các nước EU ủng hộ thuế quan, chẳng hạn như Pháp và Ý, hoàn toàn phản đối việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc về BEV.

Chiến dịch chia rẽ EU của Trung Quốc

Chiến thuật chia rẽ EU của Trung Quốc - Ảnh 2

Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch nhằm chia rẽ EU về vấn đề này trước cuộc bỏ phiếu ngày 4 tháng 10. Bắc Kinh đã đẩy mạnh những nỗ lực này hơn nữa sau khi khối này đặt ra mức thuế tạm thời vào tháng 7, sau đó giảm nhẹ vào tháng 8.

Chiến dịch của Trung Quốc bao gồm hoạt động tiếp cận cấp lãnh đạo từ ông Tập Cận Bình, cũng như các cuộc đàm phán do Bộ trưởng Thương mại Vương Văn Đào và Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị dẫn đầu. Các cuộc đàm phán cấp EU của ông Vương Văn Đào, kết hợp với những nỗ lực từ phía ông Scholz, đã cho thấy một số tiến triển ban đầu với việc hoãn cuộc bỏ phiếu cuối cùng từ ngày 25 tháng 9 đến ngày 4 tháng 10.

Việc hoãn lại này diễn ra sau cuộc họp của Vương Văn Đào với Phó chủ tịch điều hành Ủy ban châu Âu Valdis Dombrovskis vào ngày 19 tháng 9, cuộc họp này đã mang đến cho Trung Quốc cơ hội cuối cùng để đưa ra một thỏa thuận đủ hấp dẫn để EU giảm thuế hoặc chấm dứt hoàn toàn cuộc điều tra trước cuộc bỏ phiếu.

Mặc dù ngày bỏ phiếu mới được tiến hành theo đúng kế hoạch, Ủy ban châu Âu vẫn để ngỏ khả năng tiếp tục đàm phán với Trung Quốc ngay cả sau khi thuế có hiệu lực vào cuối tháng này.

Chiến thuật công khai nhất mà Bắc Kinh sử dụng là đe dọa trả đũa thương mại nhắm vào các quốc gia thành viên EU cụ thể trong các lĩnh vực xuất khẩu chính của EU, bao gồm thịt lợn, rượu mạnh và sữa.

Pháp, một nước xuất khẩu lớn của cả ba mặt hàng này, rõ ràng đang bị nhắm đến như là bên đứng đầu chính của chính sách thuế quan trong mắt Bắc Kinh. Tây Ban Nha, mục tiêu chính của thịt lợn, đã đảo ngược lập trường ngay sau khi Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sánchez gặp ông Tập Cận Bình tại Bắc Kinh vào ngày 9 tháng 9 và cuối cùng đã bỏ phiếu trắng mới đây, một sự thay đổi so với cuộc bỏ phiếu trước đó. Tuy nhiên, các nước xuất khẩu thịt lợn quan trọng khác, chẳng hạn như Hà Lan và Đan Mạch, vẫn duy trì việc ủng hộ thuế quan. Ireland, một nước xuất khẩu sữa lớn sang Trung Quốc, đã duy trì phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu không chính thức, không ràng buộc trước đó vào tháng 7. Mười quốc gia EU khác cũng vẫn giữ nguyên lập trường trong cuộc bỏ phiếu không ràng buộc, trong khi chỉ có bốn quốc gia (Slovakia, Hungary, Síp và Malta) bỏ phiếu chống lại thuế quan. Mặc dù ban đầu Đức đã bỏ phiếu trắng vào tháng 7 do áp lực trong nước và để cho quá trình này diễn ra, ông Scholz đã sử dụng quyền hành pháp để buộc Đức bỏ phiếu chống lại.

Trung Quốc cũng đã đưa ra các ưu đãi dưới hình thức cơ hội đầu tư, chẳng hạn như đề nghị thành lập các nhà máy sản xuất xe điện ở một số khu vực của Châu Âu hoặc ký kết các thỏa thuận phát triển chung giữa các nhà sản xuất ô tô Châu Âu và Trung Quốc. Ví dụ, Bắc Kinh đã đề nghị đầu tư vào năng lực sản xuất tại địa phương của Tây Ban Nha. Mặc dù được cho là đã bị trì hoãn đến tháng 10 năm 2025, nhà sản xuất BEV của Trung Quốc như Chery Auto có kế hoạch thành lập một nhà máy sản xuất tại Barcelona, ​​có khả năng cho phép công ty này tránh được mức thuế quan khoảng 21% mà hiện tại họ đang phải đối mặt. Hungary, quốc gia bỏ phiếu chống lại thuế quan, được cho là sẽ có một nhà máy sản xuất BYD hoạt động vào năm 2025. Ý, mặc dù đã bỏ phiếu ủng hộ thuế quan, nhưng đang đàm phán với Dongfeng và Chery Auto về một nhà máy sản xuất. Ba Lan, quốc gia cũng bỏ phiếu ủng hộ, có thể đã giúp Trung Quốc tránh được thuế quan bằng cách cho phép Leapmotor International, một liên doanh giữa Stellantis và Leapmotor, bắt đầu sản xuất tại quốc gia này kể từ tháng 6 năm ngoái. Và có lẽ đáng ngạc nhiên nhất là Polestar, thuộc sở hữu của Geely Holding và Volvo Cars do Geely sở hữu, đã khánh thành một nhà máy sản xuất tại Nam Carolina vào tháng 8 năm ngoái, điều này có thể cho phép công ty này tránh được một số (mặc dù không nhất thiết là tất cả) thuế quan của Mỹ và EU.

Tương lai

Chiến thuật chia rẽ EU của Trung Quốc - Ảnh 3

Với sự ghi nhận của Ủy ban Châu Âu, đợt áp thuế quan hiện tại đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong sự sẵn sàng của EU trong việc chống lại áp lực của Trung Quốc, đặc biệt là khi so sánh với các vụ kiện chống bán phá giá và trợ cấp trước đây liên quan đến năng lượng mặt trời và cơ sở hạ tầng 5G.

Tuy nhiên, việc thông qua thuế quan không phải là hồi kết của câu chuyện này, vì nỗ lực của Bắc Kinh nhằm mở rộng năng lực sản xuất BEV tại châu Âu có thể sẽ làm giảm hiệu quả của chúng theo thời gian và củng cố vị thế của mình tại thị trường châu Âu.

Hơn nữa, ngay cả khi một số công ty BEV của Trung Quốc như Geely cảm nhận được toàn bộ tác động của thuế quan, bằng chứng cho thấy rằng chúng khó có thể đủ cao để làm chậm đáng kể tốc độ tăng thị phần của Trung Quốc.

Những nỗ lực của Bắc Kinh, kết hợp với nỗ lực của Đức nhằm bảo vệ lợi ích ngắn hạn của ngành công nghiệp ô tô, đã thành công trong việc giảm mức độ nghiêm trọng của thuế quan, tạo điều kiện tiếp tục cho các khoản đầu tư mới có thể bỏ qua hoàn toàn chúng và mở ra cánh cửa cho một sự thỏa hiệp có thể được đàm phán ngay cả sau khi thuế quan được áp dụng, có thể bao gồm giá nhập khẩu tối thiểu hoặc giới hạn khối lượng.

Thuế quan của EU sẽ không hoàn toàn chặn BEV do Trung Quốc sản xuất và Bắc Kinh có thể vẫn có cơ hội thiết lập chỗ đứng vững chắc trên lục địa này. Đây là sự khác biệt chính giữa Mỹ và EU về vấn đề này. Trong khi việc áp dụng thuế quan chủ yếu là vì lý do an ninh tại Mỹ, thì thuế quan của EU về cơ bản lại là vì lý do thương mại. Do đó, châu Âu hiện sẽ phải ngày càng vật lộn với những tác động về an ninh quốc gia của các phương tiện được trang bị camera và các phần mềm và giám sát kết nối khác do Trung Quốc kiểm soát.

Hơn nữa, Mỹ sẽ tiếp tục cân nhắc bằng cách nêu ra các rủi ro về an ninh dữ liệu liên quan đến sự hiện diện ngày càng tăng của BEV Trung Quốc tại EU, nhấn mạnh vấn đề này bằng cách hạn chế phần mềm do Trung Quốc phát triển trong các phương tiện được kết nối.

Các cuộc thảo luận về các rủi ro về an ninh liên quan đến các phương tiện được kết nối, do Mỹ dẫn đầu, cùng với EU và các đồng minh khác, vẫn còn trong giai đoạn trứng nước. Cuộc họp đa quốc gia đầu tiên để giải quyết các rủi ro về phương tiện được kết nối chỉ mới được tổ chức vào cuối tháng 7.

Mỹ phải tiếp tục tập trung vào việc đoàn kết các đồng minh và đối tác để giải quyết các thách thức do Trung Quốc đặt ra trong khi thừa nhận quyền tự quyết của họ. Mặc dù Washington nên tiếp tục nhấn mạnh rằng chỉ riêng thuế quan là không đủ để giải quyết các rủi ro rộng hơn do BEV gây ra tại EU, nhưng họ cần phải thừa nhận rằng EU có những lợi ích riêng và phải giải quyết các chia rẽ nội bộ theo cách riêng của mình. Mỹ cũng không thể mong đợi các đồng minh và đối tác tuân theo một cách mù quáng khi chiến lược của chính họ nhằm giảm thiểu rủi ro trong mối quan hệ với Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng.

Tin mới

Người Việt vẫn mua nhiều xe máy trong xu hướng ô tô hoá

Người Việt vẫn mua nhiều xe máy trong xu hướng ô tô hoá

Theo báo cáo do Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) công bố mới đây, doanh số xe máy tại Việt Nam ở quý III đạt 686.001 xe, tăng 13,74% so với quý II trước đó và cao hơn tới 12,34% so với cùng kỳ năm ngoái.