“Than Việt Nam đủ khai thác vài trăm năm nữa”
Dù trữ lượng than khá lớn, nhưng Chính phủ vẫn cho phép cả 3 TKV, Petro Vietnam và EVN cùng nhập than
Với tổng tài nguyên trữ lượng cụ thể của than sông Hồng, nếu bể này thành công, thì tài nguyên than rất lớn có thể khai thác vài trăm năm và lên tới hàng chục tỷ tấn. Riêng dải Khoái Châu - Tiền Hải dự tính khai thác được khoảng 42 tỷ tấn.
Thông tin này được Phó giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư mỏ và Công nghiệp, thuộc Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), ông Lê Văn Duẩn cho biết tại buổi công bố quyết định của Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, diễn ra hôm 31/8.
Nhận định về việc “than Việt Nam đủ khai thác vài trăm năm nữa” cũng được đại diện lãnh đạo Bộ Công Thương xác nhận tại hội nghị.
Theo đại diện TKV, theo kết quả thăm dò mới nhất, than là một trong số các khoáng sản có sản lượng khai thác được lâu nhất trong số các nguồn năng lượng sơ cấp.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là dự tính. Việc có khai thác được hay không phụ thuộc vào khả năng phát triển công nghiệp khai thác của ngành than.
Đại diện TKV cũng cho hay, theo quyết định điều chỉnh quy hoạch lần này, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 khoảng 269.003 tỷ đồng (bình quân 17.934 tỷ đồng/năm). Trong đó, riêng giai đoạn đến năm 2020, nhu cầu vốn đầu tư khoảng 96.566 tỷ đồng (bình quân 19.313 tỷ đồng/năm).
Một điểm cũng đáng lưu ý, tại quy hoạch điều chỉnh, nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 dự kiến khoảng 269.003 tỷ đồng thấp hơn so với quy hoạch cũ lên tới 421.970 tỷ đồng.
Giải thích về việc điều chỉnh quy hoạch, ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng cho biết, nguyên nhân điều chỉnh vốn đầu tư là do theo quy hoạch, sản lượng than thương phẩm sẽ giảm rất mạnh. Cụ thể vào năm 2020 đạt từ 47-50 triệu tấn sau đó nâng lên 55-57 triệu tấn vào năm 2030. Trong khi yêu cầu đề ra cho quy hoạch cũ (quy hoạch 60) thì sản lượng than khai thác lên tới 60-65 triệu tấn vào năm 2020, sau đó nâng lên trên 75 triệu tấn vào năm 2030.
Trả lời câu hỏi về việc đầu tư trên 19 nghìn tỷ đồng mỗi năm sẽ mang lại hiệu quả cho kinh tế - xã hội như thế nào, đại diện Bộ Công Thương, khẳng định việc khai thác than sẽ đảm bảo an ninh năng lượng đầu tiên, tiếp đó là an sinh xã hội.
Để đảm bảo đủ nguồn vốn, ông Thọ cho biết thêm, trong quy hoạch điều chỉnh đã tính tới nhiều phương án, trong đó sẽ hướng tới việc đa dạng hình thức huy động vốn, gồm các hình thức BOT, PPP...
Lãnh đạo Tổng cục Năng lượng cũng cho biết, mặc dù là ngành kinh doanh có điều kiện, nhưng các doanh nghiệp khác nếu có đủ điều kiện cũng khuyến khích nhập khẩu than và điều này sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của TKV.
Riêng với cân đối nhu cầu sử dụng than của các hộ tiêu dùng và than cấp cho điện để đảm bảo an ninh năng lượng, lãnh đạo Tổng cục Năng lượng cho hay, bản quy hoạch điều chỉnh cũng sẽ hướng tới việc giảm xuất khẩu, thay vào đó là nhập khẩu than.
“Dự kiến tới năm 2030 Việt Nam cần nhập 70 triệu tấn than, nên Thủ tướng đã có văn bản đồng ý cho TKV và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được phép nhập khẩu than.”, ông Thọ cho biết.
Thông tin này được Phó giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư mỏ và Công nghiệp, thuộc Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), ông Lê Văn Duẩn cho biết tại buổi công bố quyết định của Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, diễn ra hôm 31/8.
Nhận định về việc “than Việt Nam đủ khai thác vài trăm năm nữa” cũng được đại diện lãnh đạo Bộ Công Thương xác nhận tại hội nghị.
Theo đại diện TKV, theo kết quả thăm dò mới nhất, than là một trong số các khoáng sản có sản lượng khai thác được lâu nhất trong số các nguồn năng lượng sơ cấp.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là dự tính. Việc có khai thác được hay không phụ thuộc vào khả năng phát triển công nghiệp khai thác của ngành than.
Đại diện TKV cũng cho hay, theo quyết định điều chỉnh quy hoạch lần này, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 khoảng 269.003 tỷ đồng (bình quân 17.934 tỷ đồng/năm). Trong đó, riêng giai đoạn đến năm 2020, nhu cầu vốn đầu tư khoảng 96.566 tỷ đồng (bình quân 19.313 tỷ đồng/năm).
Một điểm cũng đáng lưu ý, tại quy hoạch điều chỉnh, nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 dự kiến khoảng 269.003 tỷ đồng thấp hơn so với quy hoạch cũ lên tới 421.970 tỷ đồng.
Giải thích về việc điều chỉnh quy hoạch, ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng cho biết, nguyên nhân điều chỉnh vốn đầu tư là do theo quy hoạch, sản lượng than thương phẩm sẽ giảm rất mạnh. Cụ thể vào năm 2020 đạt từ 47-50 triệu tấn sau đó nâng lên 55-57 triệu tấn vào năm 2030. Trong khi yêu cầu đề ra cho quy hoạch cũ (quy hoạch 60) thì sản lượng than khai thác lên tới 60-65 triệu tấn vào năm 2020, sau đó nâng lên trên 75 triệu tấn vào năm 2030.
Trả lời câu hỏi về việc đầu tư trên 19 nghìn tỷ đồng mỗi năm sẽ mang lại hiệu quả cho kinh tế - xã hội như thế nào, đại diện Bộ Công Thương, khẳng định việc khai thác than sẽ đảm bảo an ninh năng lượng đầu tiên, tiếp đó là an sinh xã hội.
Để đảm bảo đủ nguồn vốn, ông Thọ cho biết thêm, trong quy hoạch điều chỉnh đã tính tới nhiều phương án, trong đó sẽ hướng tới việc đa dạng hình thức huy động vốn, gồm các hình thức BOT, PPP...
Lãnh đạo Tổng cục Năng lượng cũng cho biết, mặc dù là ngành kinh doanh có điều kiện, nhưng các doanh nghiệp khác nếu có đủ điều kiện cũng khuyến khích nhập khẩu than và điều này sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của TKV.
Riêng với cân đối nhu cầu sử dụng than của các hộ tiêu dùng và than cấp cho điện để đảm bảo an ninh năng lượng, lãnh đạo Tổng cục Năng lượng cho hay, bản quy hoạch điều chỉnh cũng sẽ hướng tới việc giảm xuất khẩu, thay vào đó là nhập khẩu than.
“Dự kiến tới năm 2030 Việt Nam cần nhập 70 triệu tấn than, nên Thủ tướng đã có văn bản đồng ý cho TKV và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được phép nhập khẩu than.”, ông Thọ cho biết.