3 trường hợp bị kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng
Ngân hàng Nhà nước ban hành thông tư xác định 3 trường hợp cụ thể thuộc diện có thể bị kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng
Ngân hàng Nhà nước ban hành thông tư xác định 3 trường hợp cụ thể thuộc diện có thể bị kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng.
Theo Thông tư số 08/2010/TT-NHNN, kiểm soát đặc biệt được xác định là trường hợp một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, hoặc có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Cơ chế kiểm soát đặc biệt được áp dụng cho các tổ chức tín dụng nhà nước, cổ phần, liên doanh và 100% vốn nước ngoài.
Theo nội dung Thông tư, tổ chức tín dụng có thể bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặt biệt khi lâm vào 1 trong 3 trường hợp.
Thứ nhất, tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả, biểu hiện qua 3 lần liên tiếp không đảm bảo tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo đối với từng loại đồng tiền, vàng.
Thứ hai, tổ chức tín dụng đó rơi vào tình trạng nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, được biểu hiện ở nợ xấu chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ cho vay hoặc từ 100% tổng vốn tự có trở lên trong vòng 3 tháng liên tiếp.
Thứ ba, tổ chức tín dụng đó có số lỗ lũy kế lớn hơn 50% tổng vốn điều lệ thực có và các quỹ.
Cũng theo thông tư trên, thời hạn kiểm soát đặc biệt được quy định tối đa là 2 năm kể từ ngày quyết định đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt của Thống đốc có hiệu lực.
Việc chấm dứt kiểm soát đặc biệt được thực hiện trong các trường hợp: khi hết hạn kiểm soát đặc biệt mà không được gia hạn; tổ chức tín dụng đã khắc phục được các nguyên nhân bị đặt vào kiểm soát đặc biệt và hoạt động bình thường; tổ chức tín dụng không có khả năng khắc phục dẫn đến tình trạng phá sản; trước khi kết thúc thời hạn kiểm soát đặc biệt, tổ chức tín dụng tổ chức lại theo các quy định có liên quan của pháp luật hiện hành.
Theo Thông tư số 08/2010/TT-NHNN, kiểm soát đặc biệt được xác định là trường hợp một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, hoặc có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Cơ chế kiểm soát đặc biệt được áp dụng cho các tổ chức tín dụng nhà nước, cổ phần, liên doanh và 100% vốn nước ngoài.
Theo nội dung Thông tư, tổ chức tín dụng có thể bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặt biệt khi lâm vào 1 trong 3 trường hợp.
Thứ nhất, tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả, biểu hiện qua 3 lần liên tiếp không đảm bảo tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo đối với từng loại đồng tiền, vàng.
Thứ hai, tổ chức tín dụng đó rơi vào tình trạng nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, được biểu hiện ở nợ xấu chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ cho vay hoặc từ 100% tổng vốn tự có trở lên trong vòng 3 tháng liên tiếp.
Thứ ba, tổ chức tín dụng đó có số lỗ lũy kế lớn hơn 50% tổng vốn điều lệ thực có và các quỹ.
Cũng theo thông tư trên, thời hạn kiểm soát đặc biệt được quy định tối đa là 2 năm kể từ ngày quyết định đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt của Thống đốc có hiệu lực.
Việc chấm dứt kiểm soát đặc biệt được thực hiện trong các trường hợp: khi hết hạn kiểm soát đặc biệt mà không được gia hạn; tổ chức tín dụng đã khắc phục được các nguyên nhân bị đặt vào kiểm soát đặc biệt và hoạt động bình thường; tổ chức tín dụng không có khả năng khắc phục dẫn đến tình trạng phá sản; trước khi kết thúc thời hạn kiểm soát đặc biệt, tổ chức tín dụng tổ chức lại theo các quy định có liên quan của pháp luật hiện hành.