10:10 13/11/2008

Ba vướng mắc chính khi niêm yết cổ phiếu ở nước ngoài

Lê Hường

Việc niêm yết cổ phiếu ở nước ngoài là không hề dễ với các doanh nghiệp, trong khi cơ quan quản lý cũng gặp khó

Doanh nghiệp phải có lợi nhuận trước thuế tích lũy ít nhất 7,5 triệu USD trong 3 năm tài chính gần nhất khi niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Singapore.
Doanh nghiệp phải có lợi nhuận trước thuế tích lũy ít nhất 7,5 triệu USD trong 3 năm tài chính gần nhất khi niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Singapore.
Nhiều doanh nghiệp trong nước đã tính đến việc thông qua thị trường chứng khoán nước ngoài để huy động vốn. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực của bản thân, doanh nghiệp cũng đang rất cần hỗ trợ về khung pháp lý và kỹ thuật cho hoạt động này.

 Việt Nam đã có khung pháp lý cơ bản để điều chỉnh hoạt động niêm yết tại nước ngoài. Thời gian qua, một loạt sở giao dịch chứng khoán quốc tế đã có các hoạt động tiếp xúc với các doanh nghiệp Việt Nam để thúc đẩy quá trình tham gia niêm yết của các doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài. Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có doanh nghiệp nào chính thức niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài.

Ba khó khăn chủ yếu

Theo ông Vũ Bằng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán, các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang gặp 3 khó khăn chủ yếu trong việc niêm yết tại thị trường nước ngoài.

Thứ nhất là sự khác biệt về chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), mặc dù chuẩn mực kế toán Việt nam cũng vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế.  

Khác biệt lớn nhất, theo IAS, giá trị tài sản được ghi nhận theo giá trị thị trường, trong khi theo VAS, giá trị tài sản lại ghi nhận theo nguyên tắc giá gốc.

Do đó, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh, thường được định giá thấp hơn giá trị thị trường khi tiến hành cổ phần hóa liên quan đến vấn đề sở hữu và phạm vi quyền sử dụng đất tập thể.

Theo ông Bằng, vấn đề này cần được giải quyết thông qua việc dần dần xây dựng một chuẩn mực kế toán phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, kết hợp với việc lựa chọn các tổ chức kế toán và tư vấn chuyên nghiệp.

Thứ hai, ngoài các yêu cầu về vốn và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh như quy định phải có lợi nhuận trước thuế tích lũy ít nhất 7,5 triệu USD trong 3 năm tài chính gần nhất khi niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore, các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các quy định về quản trị công ty, kiểm soát nội bộ.

Thứ ba là khung pháp lý cho họat động niêm yết trên thị trường nước ngoài đã có nhưng chưa đủ và thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể.

“Việt Nam gần như chưa có các văn bản pháp lý và tiêu chuẩn niêm yết nước ngoài, quy định về các loại giấy phép, chính sách kiểm soát ngoại hối - chuyển ngoại tệ ra vào khi phát hành CP hoặc chi trả cổ tức, quy định về tỷ lệ nắm giữ của NĐT nước ngoài”, ông Bằng phát biểu.

Khó cho cơ quan quản lý
 
Trong khi đó, ông Nguyễn Đồng Tiến - Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng, ngoài việc tuân thủ các quy định thông thường áp dụng cho các họat động vay nợ nước ngoài, việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra nước ngoài không gặp những khó khăn về cơ chế quản lý ngoại hối.

Các giao dịch thanh toán và chuyển tiền liên quan đến giao dịch vãng lai giữa người cư trú và người không cư trú được tự do thực hiện, theo đó, các khoản thu nhập từ đầu tư, các khoản thanh toán lãi giữa người cư trú và người không cư trú thuộc giao dịch vãng lai được tự do thực hiện khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài.

Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thanh toán, mua ngoại tệ để trả lãi, trả cổ tức cho các nhà đầu tư nước ngòai khi mua chứng khoán của các doanh nghiệp Việt Nam phát hành ở nước ngoài.

Ngoài ra, các quy định về mở và sử dụng tài khỏan ngoại tệ, tài khoản VND tại Việt Nam áp dụng cho người không cư trú là tổ chức và cá nhân cũng đã tạo điều kiện khá thuận lợi và thông thoáng phục vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Đối với trường hợp doanh nghiệp Việt Nam phát hành chứng khoán ở nước ngoài dưới hình thức chứng khoán vốn thì doanh nghiệp chỉ phải mở một tài khoản vốn phát hành chứng khoán bằng ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng được phép, thực hiện thu, chi thông qua tài khoản này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Như vậy, về cơ chế quản lý ngoại hối đối với hình thức phát hành này rất đơn giản, chủ yếu là yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản, chuyển ngoại tệ huy động được hay chi ngoại tệ qua tài khoản này.

Đối với trường hợp doanh nghiệp Việt Nam phát hành chứng khoán ở nước ngoài dưới hình thức chứng khoán nợ, doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục, quy định về quản lý ngoại hối áp dụng đối với việc vay và trả nợ nước ngòai, nghĩa là như một khoản vay nước ngoài thông thường. Các quy định có liên quan đến ngoại hối trong lĩnh vực vay, trả nợ nước ngoài cũng đã quy định cụ thể tại Nghị định 160/2006/NĐ-CP.

Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định từng thời kỳ, thực hiện đăng ký khoản vay đối với Ngân hàng Nhà nước. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước, cần phải lập đề án phát hành, lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Còn theo ông Dương Ngọc Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm lưu ký Chứng khoán, việc niêm yết tại thị trường chứng khoán nước ngoài của doanh nghiệp cũng sẽ gây một số khó khăn cho cơ quan quản lý đối với việc quản lý tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài.

Đó là, Việt Nam chưa có văn bản pháp lý quy định về tỷ lệ nắm giữ nước ngoài đối với các công ty Việt Nam có chứng khoán niêm yết tại nước ngoài, chưa có văn bản hướng dẫn về việc phân định, tính toán tỷ lệ niêm yết tại nước ngoài và tỷ lệ nắm giữ nước ngoài ở trong nước.

Bên cạnh đó, việc quản lý đăng ký, lưu ký cũng gặp một số khó khăn: văn bản pháp lý hiện tại mới đề cập đến điều kiện niêm yết, trách nhiệm báo cáo và nghĩa vụ của doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán nước ngoài; chưa có quy định, hướng dẫn riêng về việc thực hiện và hoạt động đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ đối với chứng khoán của các doanh nghiệp Việt Nam niêm yết ở nước ngoài.

Như vậy, giữa ý muốn được niêm yết tại thị trường chứng khoán nước ngoài và khả năng thực hiện của các doanh nghiệp Việt Nam còn là một khoảng cách khá xa cho công tác chuẩn bị và tuyên truyền.