Can thiệp biến động tỷ giá, cách nào?
Nguồn USD trên thị trường được cho là rất nhiều, nhưng tỷ giá trên thị trường tự do vẫn leo thang. Vấn đề là giải pháp can thiệp

Giá USD trên thị trường tự do những ngày qua liên tục leo thang, lập các kỷ lục mới. Nhiều ngân hàng cũng đã đẩy giá USD mua vào kịch trần biên độ. Thị trường xuất hiện thông tin Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ bán ra can thiệp.
Từ cuối năm 2007 đến nay, tỷ giá USD/VND có nhiều biến động. Trong những đợt biến động đó, hoạt động bán ra của Ngân hàng Nhà nước thường là một sự can thiệp tức thời. Dự trữ ngoại hồi từ trên 20 tỷ USD đã giảm xuống còn khoảng trên dưới 14 tỷ USD (theo một số nguồn tin chính thống đề cập thời gian qua).
Qua những biến động trên là những câu hỏi luôn thường trực: đâu là những giải pháp can thiệp hợp lý? nguồn ngoại tệ của Việt Nam có đủ để chủ động ứng xử cho lâu dài?
Trao đổi với báo giới xoay quanh những câu hỏi trên, TS. Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nói:
- Giải pháp hợp lý nhất là cách điều hành, là việc thu USD vào phải có nhiều biện pháp để thu. Nguồn bán ra cũng có nhiều biện pháp để bán ra, để nó thông suốt.
Cái thứ hai là việc can thiệp của Ngân hàng Nhà nước. Khi mình thấy một số trạng thái âm thì phải phản ứng ngay, không để phải ra thị trường mua với bất kỳ.
Với những trường hợp cố tình đầu cơ tung tin thì phải xử. Cái nữa là điều hành chính sách tiền tệ phải hết sức linh hoạt. Nếu các biện pháp khác mình đã làm hết rồi mà không được thì cũng phải chỉnh tỷ giá thôi.
Nhưng để triển khai tốt các biện pháp can thiệp tốt thì cũng phải có thực lực nguồn cung, thưa ông?
Sẽ dùng mọi biện pháp để hút USD ngoài thị trường vào. Dự trữ của mình giảm nhưng USD thị trường thì rất nhiều. Mình không thu vào thì dễ phát sinh nhiều tiêu cực. Đó là một vấn đề hệ trọng.
Rồi mình phải làm cái tâm lý, phải thông tin rõ ràng, giải thích, tuyên bố cho người ta yên tâm. Ví dụ có thông tin đồn ầm lên, Ngân hàng Nhà nước phải nhanh chóng tuyên bố, sẽ đảm bảo như thế nào thì nó sụt ngay.
Vậy phản ứng của Ngân hàng Nhà nước với tình hình hiện nay theo ông đã hợp lý chưa?
Về quan điểm tôi cho là được, nhưng cách điều hành tôi cho là có vấn đề. Ví dụ việc mình có chính sách hút USD thị trường vào, kiều hối giờ rất lớn, USD trôi nổi trên thị trường cũng nhiều, nếu mình có chính sách để thu vào, như chính sách mua bán USD có thời hạn, rồi đảm bảo khả năng họ bán vào...
Khi mua vào với giá thấp, bán ra với giá cao thì tự nhiên họ thấy mình bị thiệt, họ giữ thôi, để kiếm lời. Đó là tất yếu của thị trường.
Vậy còn giải pháp kết hối?
Không kết hối được, tại vì đó là một biện pháp thụt lùi trong quản lý kinh tế, nó là hành chính và nó ngược lại với thị trường. Nó chỉ sử dụng trong tình thế rất nguy cấp và không có cách nào khác.
Có một thắc mắc thường thấy là hướng vận động tỷ giá ở Việt Nam không giống như thế giới. Ví dụ giá USD thế giới đang giảm thì ở Việt Nam lại tăng cao. Ông nói sao về điều này?
Nó có cái yếu tố cung cầu của mình. Vì mình sử dụng USD là chủ yếu mà ít sử dụng các đồng tiền nước ngoài khác.
Cái thứ hai là tâm lý. Bây giờ người ta sợ lạm phát Việt Nam cao, phán đoán kinh tế Mỹ hồi phục, nên người ta đi lùng USD. Người có họ không bán, người chưa có họ mua vào, kể cả các ngân hàng họ cũng phải giữ vào để tránh rủi ro tỷ giá.
Đó là yếu tố làm cho đồng USD của mình biến động khác với thế giới.
“Nếu các biện pháp khác đã làm mà không được thì phải chỉnh tỷ giá”. Nhưng phía sau đó là quan ngại về nhập siêu và lạm phát?
Điều chỉnh tỷ giá của mình thì đến giờ phút này là nó tương đối ổn định cơ bản, nhưng muốn xử lý tiếp thì nó phải căn cứ vào ba cái.
Thứ nhất, khả năng xuất khẩu của mình có khai thác được nữa không? Vì xuất khẩu hiện nay chi phí của mình vẫn cao, sản xuất hàng xuất khẩu của mình thì đến 40 - 50% nguyên liệu nhập khẩu ngoài vào, nếu anh càng xuất khẩu nhiều thì phải càng nhập siêu nhiều và anh càng phải tiêu thụ hàng nước ngoài nhiều.
Mình khuyến khích đến mức nào, xuất khẩu nhằm mục đích gì? Hàng mà mình 60 - 70% phải gia công lắp ráp vào để có hàng xuất ra, phần của mình trong đó rất ít.
Cho nên chiếu cố yếu tố xuất khẩu cũng phải nắm rõ và cũng vừa phải chứ không phải là tất cả.
Cái thứ hai, nhập siêu, nếu mình để đồng tiền nước ngoài nó cao quá thì mình nhập siêu vào nhiều, mình lại nhập lạm phát từ nước ngoài vào; cộng với lạm phát của mình trở thành nguy cơ lạm phát kép.
Cái thứ ba, còn 20 tỷ USD nợ nước ngoài, nếu chúng ta điều chỉnh không khéo thì mỗi đồng USD tăng lên quá cao thì nó làm cho gánh nặng nợ của doanh nghiệp Việt Nam trồi lên và thiệt hại rất lớn.
Bây giờ phải chú ý chỉnh ba cái này cho nó phù hợp, vừa khuyến khích được xuất khẩu, vừa hạn chế được nhập siêu, cái thứ ba nữa là tránh khó khăn rủi ro cho các doanh nghiệp đang vay ngoại tệ nước ngoài.
Từ cuối năm 2007 đến nay, tỷ giá USD/VND có nhiều biến động. Trong những đợt biến động đó, hoạt động bán ra của Ngân hàng Nhà nước thường là một sự can thiệp tức thời. Dự trữ ngoại hồi từ trên 20 tỷ USD đã giảm xuống còn khoảng trên dưới 14 tỷ USD (theo một số nguồn tin chính thống đề cập thời gian qua).
Qua những biến động trên là những câu hỏi luôn thường trực: đâu là những giải pháp can thiệp hợp lý? nguồn ngoại tệ của Việt Nam có đủ để chủ động ứng xử cho lâu dài?
Trao đổi với báo giới xoay quanh những câu hỏi trên, TS. Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nói:
- Giải pháp hợp lý nhất là cách điều hành, là việc thu USD vào phải có nhiều biện pháp để thu. Nguồn bán ra cũng có nhiều biện pháp để bán ra, để nó thông suốt.
Cái thứ hai là việc can thiệp của Ngân hàng Nhà nước. Khi mình thấy một số trạng thái âm thì phải phản ứng ngay, không để phải ra thị trường mua với bất kỳ.
Với những trường hợp cố tình đầu cơ tung tin thì phải xử. Cái nữa là điều hành chính sách tiền tệ phải hết sức linh hoạt. Nếu các biện pháp khác mình đã làm hết rồi mà không được thì cũng phải chỉnh tỷ giá thôi.
Nhưng để triển khai tốt các biện pháp can thiệp tốt thì cũng phải có thực lực nguồn cung, thưa ông?
Sẽ dùng mọi biện pháp để hút USD ngoài thị trường vào. Dự trữ của mình giảm nhưng USD thị trường thì rất nhiều. Mình không thu vào thì dễ phát sinh nhiều tiêu cực. Đó là một vấn đề hệ trọng.
Rồi mình phải làm cái tâm lý, phải thông tin rõ ràng, giải thích, tuyên bố cho người ta yên tâm. Ví dụ có thông tin đồn ầm lên, Ngân hàng Nhà nước phải nhanh chóng tuyên bố, sẽ đảm bảo như thế nào thì nó sụt ngay.
Vậy phản ứng của Ngân hàng Nhà nước với tình hình hiện nay theo ông đã hợp lý chưa?
Về quan điểm tôi cho là được, nhưng cách điều hành tôi cho là có vấn đề. Ví dụ việc mình có chính sách hút USD thị trường vào, kiều hối giờ rất lớn, USD trôi nổi trên thị trường cũng nhiều, nếu mình có chính sách để thu vào, như chính sách mua bán USD có thời hạn, rồi đảm bảo khả năng họ bán vào...
Khi mua vào với giá thấp, bán ra với giá cao thì tự nhiên họ thấy mình bị thiệt, họ giữ thôi, để kiếm lời. Đó là tất yếu của thị trường.
Vậy còn giải pháp kết hối?
Không kết hối được, tại vì đó là một biện pháp thụt lùi trong quản lý kinh tế, nó là hành chính và nó ngược lại với thị trường. Nó chỉ sử dụng trong tình thế rất nguy cấp và không có cách nào khác.
Có một thắc mắc thường thấy là hướng vận động tỷ giá ở Việt Nam không giống như thế giới. Ví dụ giá USD thế giới đang giảm thì ở Việt Nam lại tăng cao. Ông nói sao về điều này?
Nó có cái yếu tố cung cầu của mình. Vì mình sử dụng USD là chủ yếu mà ít sử dụng các đồng tiền nước ngoài khác.
Cái thứ hai là tâm lý. Bây giờ người ta sợ lạm phát Việt Nam cao, phán đoán kinh tế Mỹ hồi phục, nên người ta đi lùng USD. Người có họ không bán, người chưa có họ mua vào, kể cả các ngân hàng họ cũng phải giữ vào để tránh rủi ro tỷ giá.
Đó là yếu tố làm cho đồng USD của mình biến động khác với thế giới.
“Nếu các biện pháp khác đã làm mà không được thì phải chỉnh tỷ giá”. Nhưng phía sau đó là quan ngại về nhập siêu và lạm phát?
Điều chỉnh tỷ giá của mình thì đến giờ phút này là nó tương đối ổn định cơ bản, nhưng muốn xử lý tiếp thì nó phải căn cứ vào ba cái.
Thứ nhất, khả năng xuất khẩu của mình có khai thác được nữa không? Vì xuất khẩu hiện nay chi phí của mình vẫn cao, sản xuất hàng xuất khẩu của mình thì đến 40 - 50% nguyên liệu nhập khẩu ngoài vào, nếu anh càng xuất khẩu nhiều thì phải càng nhập siêu nhiều và anh càng phải tiêu thụ hàng nước ngoài nhiều.
Mình khuyến khích đến mức nào, xuất khẩu nhằm mục đích gì? Hàng mà mình 60 - 70% phải gia công lắp ráp vào để có hàng xuất ra, phần của mình trong đó rất ít.
Cho nên chiếu cố yếu tố xuất khẩu cũng phải nắm rõ và cũng vừa phải chứ không phải là tất cả.
Cái thứ hai, nhập siêu, nếu mình để đồng tiền nước ngoài nó cao quá thì mình nhập siêu vào nhiều, mình lại nhập lạm phát từ nước ngoài vào; cộng với lạm phát của mình trở thành nguy cơ lạm phát kép.
Cái thứ ba, còn 20 tỷ USD nợ nước ngoài, nếu chúng ta điều chỉnh không khéo thì mỗi đồng USD tăng lên quá cao thì nó làm cho gánh nặng nợ của doanh nghiệp Việt Nam trồi lên và thiệt hại rất lớn.
Bây giờ phải chú ý chỉnh ba cái này cho nó phù hợp, vừa khuyến khích được xuất khẩu, vừa hạn chế được nhập siêu, cái thứ ba nữa là tránh khó khăn rủi ro cho các doanh nghiệp đang vay ngoại tệ nước ngoài.