Chân dung các Tổng giám đốc IMF trong lịch sử
Kể từ khi được thành lập năm 1944 tới nay, IMF đã trải qua nhiều đời Tổng giám đốc khác nhau
Sáng sớm nay (29/6), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã chính thức công bố người giành chiến thắng trong cuộc đua giành ghế Tổng giám đốc tổ chức tài chính đầy quyền lực này, là Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp, bà Christine Lagarde.
Nữ Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp đã vượt qua đối thủ là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Mexico Agustin Carstens, người nhận được sự ủng hộ của các nước đang phát triển. Bà Lagarde là người phụ nữ đầu tiên đứng đầu IMF kể từ khi cơ quan này ra đời năm 1944.
Bà Lagarde sẽ bắt đầu dời Paris để đến Washington, trụ sở của IMF để bắt đầu nhiệm kỳ, sau khi người tiền nhiệm là ông Dominique Strauss-Kahn đã buộc phải từ chức do dính líu đến vụ bê bối tình dục trước đó. Nhiệm kỳ 5 năm của bà Lagarde sẽ bắt đầu từ ngày 5/7 tới.
Nhân sự kiện này, hãy cùng VnEconomy điểm lại các gương mặt Tổng giám đốc IMF trong lịch sử:
Camille Gutt, Bỉ
Nhiệm kỳ: 6/5/1946 - 5/5/1951
Việc chọn lựa người lãnh đạo một tổ chức mới không hề dễ dàng. Khi IMF được thành lập, câu hỏi lớn về ai sẽ lãnh đạo tổ chức này đã được đưa lên bàn cân. Sau khi ứng viên người Mỹ Harry D. White bị loại vì những cáo buộc gián điệp, Camille Gutt, người vốn đứng ngoài cuộc đua, đã được chọn.
Bản thân ông Gutt không phải là một chuyên gia kinh tế, ông là một nhà báo kiêm luật sư, Francois Crombois, Phó giáo sư khoa học chính trị trường Đại học American ở Bulgaria, tác giả cuốn "Camille Gutt và tình hình tài chính quốc tế thời hậu chiến", cho hãng tin CNBC biết.
Ông làm việc từ tháng 5/1946 đến tháng 5/1951, trở thành kiến trúc sư của kế hoạch cải tổ hệ thống tiền tệ, đưa đến việc phục hồi nền kinh tế Bỉ sau Thế chiến thứ hai. Ông vốn đã nổi tiếng trong Thế chiến thứ hai vì đã có công cứu đồng franc của Bỉ, bằng cách bí mật chuyển số vàng dự trữ tại Ngân hàng Quốc gia Bỉ ra khỏi tầm kiểm soát của Đức Quốc xã.
Sau Thế chiến thứ hai, ông giúp chặn đứng tình trạng lạm phát của Bỉ với chiến dịch mang chính tên ông. Ông cũng có công trong việc thành lập liên minh kinh tế Benelux (gồm các nước Bỉ, Hà Lan và Luxembourg), một trong những tổ chức tiền thân của EU hiện nay.
Ivar Rooth, Thụy Điển
Nhiệm kỳ: 3/8/1951 - 3/10/1956
Kể từ khi IMF được thành lập năm 1944, theo một quy định bất thành văn, người đứng đầu tổ chức này là công dân thuộc châu Âu, còn người Mỹ sẽ lãnh đạo Ngân hàng Thế giới (WB). Tuy nhiên, Ivar Rooth trước khi lãnh đạo IMF từng giữ vị trí cao trong WB.
Trước khi IMF chọn ông làm Tổng giám đốc, Rooth đã được WB cử tới Iran để đàm phán cho quốc gia này vay một số tiền lớn để phát triển kinh tế. Trong suốt thời gian lãnh đạo IMF, Rooth đã đưa ra các mục tiêu mới cho tổ chức này và coi mục tiêu chính là tự do hóa thương mại quốc tế.
Trong bài phát biểu giới thiệu vào ngày 11/9/1951, ông đã tuyên bố mình sẽ loại bỏ hoặc điều chỉnh lại các quy định thắt chặt quy đổi tiền tệ và những quy định phân biệt đối xử khác.
Per Jacobsson, Thụy Điển
Nhiệm kỳ: 21/11/1956 - 5/5/1963
Dấu ấn của Per Jacobsson trong nhiệm kỳ lãnh đạo IMF là việc tổ chức này hỗ trợ Anh 561,5 triệu USD do thất bại trong dự án kênh đào Suez, và gói viện trợ cho Pháp trị giá 655 triệu USD khi kinh tế nước này vật lộn với những thua thiệt trong cuộc chiến tại Đông Dương và Algeria.
Là chuyên gia về kinh tế từng phục vụ tại Ngân hàng Lập nghiệp ở Basel, Thụy Sĩ, ông biết vận dụng các số liệu phân tích kinh tế làm cơ sở để IMF có nhiều tác động tích cực đến nhiều nền kinh tế thành viên.
Ông cũng nổi tiếng với nghiệp văn chương. Dưới bút danh Peter Oldfeld, Jocobsson đã hợp tác với người bạn Vernon Bartlett xuất bản hai cuốn truyện ""The Death of a Diplomat" vào năm 1928, và cuốn "The Alchemy Murder" trong năm tiếp theo. Cả hai cuốn truyện này đều thuộc thể loại hình sự và đều được làm phim sau đó.
Pierre-Paul Schweitzer, Pháp
Nhiệm kỳ: 1/9/1963 - 31/8/1973
Pierre-Paul Schweitzer sinh ra trong một gia đình khá nổi tiếng. Ông là cháu trai của người đoạt giải Nobel hòa bình Albert Schweitzer và nhạc trưởng Dàn nhạc Giao hưởng Boston là Charles Much. Ông Schweitzer trở thành Tổng giám đốc IMF vào năm 1963.
Trước khi đảm nhiệm cương vị này, ông từng giữ vị trí cao trong hệ thống kinh tế Pháp, bao gồm Giám đốc ngân khố, Phó thống đốc Ngân hàng trung ương Pháp.
Schweitzer cũng từng là một binh sỹ phục vụ trong thời kỳ Thế chiến 2 và nhận được khá nhiều huy chương. Ông là người Pháp đầu tiên nắm giữ ngôi vị Tổng giám đốc IMF. Người Pháp đã nhiều lần giành được vai trò này trong lịch sử Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Johannes Witteveen, Hà Lan
Nhiệm kỳ: 1/9/1973 - 16/6/1978
Tổng giám đốc đời thứ 5 của IMF, Johannes Witteveen, từng đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Tài chính của Hà Lan. Sau khi rời chức Tổng giám đốc IMF, ông đã trở thành Chủ tịch đầu tiên của nhóm 30 (G-30), tổ chức kinh tế có trụ sở ở Washington.
Những trách nhiệm liên quan tới cương vị Giám đốc IMF luôn là một gánh nặng lớn. Witteveen đã tìm được sự giải tỏa nhờ vào Hồi giáo mật tông, một hệ tư tưởng được coi là "trái tim của đạo Hồi". Ông Witteveen còn viết sách về đạo này.
Jacques de Larosière, Pháp
Nhiệm kỳ: 17/6/1978 - 15/1/1987
Một trong những dấu ấn của ông Jacques de Larosière là hỗ trợ giải quyết cuộc khủng hoảng nợ tại Mexico. Cuộc khủng hoảng này bùng phát năm 1982. Hành động của IMF khi đó đã giúp ngăn chặn làn sóng vỡ nợ ở nhiều nước.
Sau nhiệm kỳ, Larosiere tiếp tục tham gia hỗ trợ cải thiện hệ thống tài chính toàn cầu. Năm 2009, ông chủ trì một nhóm chuyên gia kinh tế. Nhóm này đã đưa ra đề nghị xây dựng một cơ cấu khung cho các quy định tài chính tốt hơn.
Michel Camdessus, Pháp
Nhiệm kỳ: 16/1/1987 - 14/2/2000
Michel Camdessus có lẽ là lãnh đạo IMF bị chỉ trích nhiều nhất, nhưng ông cũng là người duy nhất tái cử hai lần vào cương vị này. Hơn 13 năm liền đứng đầu Quỹ Tiền tệ quốc tế (1987-2000), ông Michel Camdessus không chỉ chứng kiến mà còn có những tác động không nhỏ đến sự đổi thay của thế giới.
Trong thời gian ông giữ chức này, thế giới đã hứng chịu hàng lọat khủng hoảng tài chính đánh mạnh vào các nền kinh tế mới nổi, trong đó phải kể đến như cuộc khủng hoảng ở Mexico lần hai (1994), Thái Lan (1997), Đông Nam Á (1997 - 1998), Nga (1998, Brazil (1999).
Ông bị chỉ trích không nắm đặc thù kinh tế của các nước Đông Á dẫn đến áp dụng mù quáng công thức từng áp dụng tại Mexico - vốn gây ra cuộc khủng hoảng tại nước này. Thế nhưng, cũng chính nhờ các biện pháp khắc khổ của IMF, những cuộc khủng hoảng này chấm dứt vào năm 2000.
Ông Camdessus từ chức năm 2000, hai năm trước khi nhiệm kỳ của ông kết thúc, và trở thành cố vấn cho Giáo hàng John-Paul II. Sau khi từ chức, ông vẫn còn bị Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina chỉ trích, vì hai nước này phải gánh chịu hậu quả của khủng hoảng.
Horst Köhler, Đức
Nhiệm kỳ: 1/5/2000 - 4/3/2004
Khi Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990, Köhler đảm nhiệm chức Thứ trưởng Bộ Tài chính Đức và tham dự đàm phán về các điều kiện thống nhất cũng như Hiệp ước Maastricht. Ông bắt đầu giữ chức Tổng giám đốc IMF từ năm 2000, nhưng 4 năm sau ông từ chức để chạy đua vào cương vị Tổng thống Pháp.
Hôm 31/5/2010, ông Horst Köhler bất ngờ tuyên bố từ chức Tổng thống Đức, sau hàng loạt những chỉ trích về bài phát biểu của ông liên quan đến việc Đức triển khai quân sự tại Afghanistan.
Rodrigo de Rato, Tây Ban Nha
Nhiệm kỳ: 7/6/2004 - 31/10/2007
Rodrigo de Rato là Tổng giám đốc thứ ba của IMF từ chức khi đang đảm nhiệm trọng trách. Chỉ 3 năm sau khi được bổ nhiệm, cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Tây Ban Nha đã quyết định rời chức vì "các lý do cá nhân".
Sau khi nghỉ khỏi IMF, Rato đã đảm nhiệm chức cố vấn cho Criteria-Caixacorp, Banco Santander – ngân hàng tư nhân lớn nhất châu Âu và Lazard. Năm 2009, ông tuyên bố sẽ từ bỏ những vị trí này để tới gia nhập Caja Madrid, và trở thành Chủ tịch ngân hàng tiết kiệm của Tây Ban Nha này.
Dominique Strauss-Kahn, Pháp
Nhiệm kỳ: 1/11/2007 - 18/5/2011
Trong vai trò một quan chức toàn cầu, ông đã chèo lái thành công IMF, xử lý đúng đắn vai trò của tổ chức tiền tệ này trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 và nhất là khủng hoảng nợ công ở châu Âu mới đây. Ông Strauss-Kahn đã giành được cảm tình của tất cả 27 thành viên Liên minh châu Âu cùng với Mỹ, châu Á và châu Phi, trong đó quan trọng nhất là Trung Quốc - siêu cường kinh tế mới của thế giới mà nước Pháp đang nỗ lực kết thân.
Đối với nhiều người Pháp, đặc biệt là những ai không hài lòng với đương kim Tổng thống Nicolas Sarkozy thì ông Strauss-Kahn chính là người thay thế thích hợp nhất trên cương vị Tổng thống Pháp nhiệm kỳ tới. Ông Strauss-Kahn, thành viên đảng Xã hội cánh tả, có những phẩm chất đủ làm thỏa mãn sự mong đợi của những người muốn thấy nước Pháp phải thay đổi hơn nữa.
Tuy nhiên, vụ bê bối của ông Strauss-Kahn liên quan tới một cáo buộc cưỡng ép tình dục nữ nhân viên dọn phòng, 32 tuổi, tại khách sạn Sofitel ở khu Manhattan, đã làm tiêu tan sự nghiệp của ông.
Nữ Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp đã vượt qua đối thủ là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Mexico Agustin Carstens, người nhận được sự ủng hộ của các nước đang phát triển. Bà Lagarde là người phụ nữ đầu tiên đứng đầu IMF kể từ khi cơ quan này ra đời năm 1944.
Bà Lagarde sẽ bắt đầu dời Paris để đến Washington, trụ sở của IMF để bắt đầu nhiệm kỳ, sau khi người tiền nhiệm là ông Dominique Strauss-Kahn đã buộc phải từ chức do dính líu đến vụ bê bối tình dục trước đó. Nhiệm kỳ 5 năm của bà Lagarde sẽ bắt đầu từ ngày 5/7 tới.
Nhân sự kiện này, hãy cùng VnEconomy điểm lại các gương mặt Tổng giám đốc IMF trong lịch sử:
Camille Gutt, Bỉ
Nhiệm kỳ: 6/5/1946 - 5/5/1951
Việc chọn lựa người lãnh đạo một tổ chức mới không hề dễ dàng. Khi IMF được thành lập, câu hỏi lớn về ai sẽ lãnh đạo tổ chức này đã được đưa lên bàn cân. Sau khi ứng viên người Mỹ Harry D. White bị loại vì những cáo buộc gián điệp, Camille Gutt, người vốn đứng ngoài cuộc đua, đã được chọn.
Bản thân ông Gutt không phải là một chuyên gia kinh tế, ông là một nhà báo kiêm luật sư, Francois Crombois, Phó giáo sư khoa học chính trị trường Đại học American ở Bulgaria, tác giả cuốn "Camille Gutt và tình hình tài chính quốc tế thời hậu chiến", cho hãng tin CNBC biết.
Ông làm việc từ tháng 5/1946 đến tháng 5/1951, trở thành kiến trúc sư của kế hoạch cải tổ hệ thống tiền tệ, đưa đến việc phục hồi nền kinh tế Bỉ sau Thế chiến thứ hai. Ông vốn đã nổi tiếng trong Thế chiến thứ hai vì đã có công cứu đồng franc của Bỉ, bằng cách bí mật chuyển số vàng dự trữ tại Ngân hàng Quốc gia Bỉ ra khỏi tầm kiểm soát của Đức Quốc xã.
Sau Thế chiến thứ hai, ông giúp chặn đứng tình trạng lạm phát của Bỉ với chiến dịch mang chính tên ông. Ông cũng có công trong việc thành lập liên minh kinh tế Benelux (gồm các nước Bỉ, Hà Lan và Luxembourg), một trong những tổ chức tiền thân của EU hiện nay.
Ivar Rooth, Thụy Điển
Nhiệm kỳ: 3/8/1951 - 3/10/1956
Kể từ khi IMF được thành lập năm 1944, theo một quy định bất thành văn, người đứng đầu tổ chức này là công dân thuộc châu Âu, còn người Mỹ sẽ lãnh đạo Ngân hàng Thế giới (WB). Tuy nhiên, Ivar Rooth trước khi lãnh đạo IMF từng giữ vị trí cao trong WB.
Trước khi IMF chọn ông làm Tổng giám đốc, Rooth đã được WB cử tới Iran để đàm phán cho quốc gia này vay một số tiền lớn để phát triển kinh tế. Trong suốt thời gian lãnh đạo IMF, Rooth đã đưa ra các mục tiêu mới cho tổ chức này và coi mục tiêu chính là tự do hóa thương mại quốc tế.
Trong bài phát biểu giới thiệu vào ngày 11/9/1951, ông đã tuyên bố mình sẽ loại bỏ hoặc điều chỉnh lại các quy định thắt chặt quy đổi tiền tệ và những quy định phân biệt đối xử khác.
Per Jacobsson, Thụy Điển
Nhiệm kỳ: 21/11/1956 - 5/5/1963
Dấu ấn của Per Jacobsson trong nhiệm kỳ lãnh đạo IMF là việc tổ chức này hỗ trợ Anh 561,5 triệu USD do thất bại trong dự án kênh đào Suez, và gói viện trợ cho Pháp trị giá 655 triệu USD khi kinh tế nước này vật lộn với những thua thiệt trong cuộc chiến tại Đông Dương và Algeria.
Là chuyên gia về kinh tế từng phục vụ tại Ngân hàng Lập nghiệp ở Basel, Thụy Sĩ, ông biết vận dụng các số liệu phân tích kinh tế làm cơ sở để IMF có nhiều tác động tích cực đến nhiều nền kinh tế thành viên.
Ông cũng nổi tiếng với nghiệp văn chương. Dưới bút danh Peter Oldfeld, Jocobsson đã hợp tác với người bạn Vernon Bartlett xuất bản hai cuốn truyện ""The Death of a Diplomat" vào năm 1928, và cuốn "The Alchemy Murder" trong năm tiếp theo. Cả hai cuốn truyện này đều thuộc thể loại hình sự và đều được làm phim sau đó.
Pierre-Paul Schweitzer, Pháp
Nhiệm kỳ: 1/9/1963 - 31/8/1973
Pierre-Paul Schweitzer sinh ra trong một gia đình khá nổi tiếng. Ông là cháu trai của người đoạt giải Nobel hòa bình Albert Schweitzer và nhạc trưởng Dàn nhạc Giao hưởng Boston là Charles Much. Ông Schweitzer trở thành Tổng giám đốc IMF vào năm 1963.
Trước khi đảm nhiệm cương vị này, ông từng giữ vị trí cao trong hệ thống kinh tế Pháp, bao gồm Giám đốc ngân khố, Phó thống đốc Ngân hàng trung ương Pháp.
Schweitzer cũng từng là một binh sỹ phục vụ trong thời kỳ Thế chiến 2 và nhận được khá nhiều huy chương. Ông là người Pháp đầu tiên nắm giữ ngôi vị Tổng giám đốc IMF. Người Pháp đã nhiều lần giành được vai trò này trong lịch sử Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Johannes Witteveen, Hà Lan
Nhiệm kỳ: 1/9/1973 - 16/6/1978
Tổng giám đốc đời thứ 5 của IMF, Johannes Witteveen, từng đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Tài chính của Hà Lan. Sau khi rời chức Tổng giám đốc IMF, ông đã trở thành Chủ tịch đầu tiên của nhóm 30 (G-30), tổ chức kinh tế có trụ sở ở Washington.
Những trách nhiệm liên quan tới cương vị Giám đốc IMF luôn là một gánh nặng lớn. Witteveen đã tìm được sự giải tỏa nhờ vào Hồi giáo mật tông, một hệ tư tưởng được coi là "trái tim của đạo Hồi". Ông Witteveen còn viết sách về đạo này.
Jacques de Larosière, Pháp
Nhiệm kỳ: 17/6/1978 - 15/1/1987
Một trong những dấu ấn của ông Jacques de Larosière là hỗ trợ giải quyết cuộc khủng hoảng nợ tại Mexico. Cuộc khủng hoảng này bùng phát năm 1982. Hành động của IMF khi đó đã giúp ngăn chặn làn sóng vỡ nợ ở nhiều nước.
Sau nhiệm kỳ, Larosiere tiếp tục tham gia hỗ trợ cải thiện hệ thống tài chính toàn cầu. Năm 2009, ông chủ trì một nhóm chuyên gia kinh tế. Nhóm này đã đưa ra đề nghị xây dựng một cơ cấu khung cho các quy định tài chính tốt hơn.
Michel Camdessus, Pháp
Nhiệm kỳ: 16/1/1987 - 14/2/2000
Michel Camdessus có lẽ là lãnh đạo IMF bị chỉ trích nhiều nhất, nhưng ông cũng là người duy nhất tái cử hai lần vào cương vị này. Hơn 13 năm liền đứng đầu Quỹ Tiền tệ quốc tế (1987-2000), ông Michel Camdessus không chỉ chứng kiến mà còn có những tác động không nhỏ đến sự đổi thay của thế giới.
Trong thời gian ông giữ chức này, thế giới đã hứng chịu hàng lọat khủng hoảng tài chính đánh mạnh vào các nền kinh tế mới nổi, trong đó phải kể đến như cuộc khủng hoảng ở Mexico lần hai (1994), Thái Lan (1997), Đông Nam Á (1997 - 1998), Nga (1998, Brazil (1999).
Ông bị chỉ trích không nắm đặc thù kinh tế của các nước Đông Á dẫn đến áp dụng mù quáng công thức từng áp dụng tại Mexico - vốn gây ra cuộc khủng hoảng tại nước này. Thế nhưng, cũng chính nhờ các biện pháp khắc khổ của IMF, những cuộc khủng hoảng này chấm dứt vào năm 2000.
Ông Camdessus từ chức năm 2000, hai năm trước khi nhiệm kỳ của ông kết thúc, và trở thành cố vấn cho Giáo hàng John-Paul II. Sau khi từ chức, ông vẫn còn bị Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina chỉ trích, vì hai nước này phải gánh chịu hậu quả của khủng hoảng.
Horst Köhler, Đức
Nhiệm kỳ: 1/5/2000 - 4/3/2004
Khi Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990, Köhler đảm nhiệm chức Thứ trưởng Bộ Tài chính Đức và tham dự đàm phán về các điều kiện thống nhất cũng như Hiệp ước Maastricht. Ông bắt đầu giữ chức Tổng giám đốc IMF từ năm 2000, nhưng 4 năm sau ông từ chức để chạy đua vào cương vị Tổng thống Pháp.
Hôm 31/5/2010, ông Horst Köhler bất ngờ tuyên bố từ chức Tổng thống Đức, sau hàng loạt những chỉ trích về bài phát biểu của ông liên quan đến việc Đức triển khai quân sự tại Afghanistan.
Rodrigo de Rato, Tây Ban Nha
Nhiệm kỳ: 7/6/2004 - 31/10/2007
Rodrigo de Rato là Tổng giám đốc thứ ba của IMF từ chức khi đang đảm nhiệm trọng trách. Chỉ 3 năm sau khi được bổ nhiệm, cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Tây Ban Nha đã quyết định rời chức vì "các lý do cá nhân".
Sau khi nghỉ khỏi IMF, Rato đã đảm nhiệm chức cố vấn cho Criteria-Caixacorp, Banco Santander – ngân hàng tư nhân lớn nhất châu Âu và Lazard. Năm 2009, ông tuyên bố sẽ từ bỏ những vị trí này để tới gia nhập Caja Madrid, và trở thành Chủ tịch ngân hàng tiết kiệm của Tây Ban Nha này.
Dominique Strauss-Kahn, Pháp
Nhiệm kỳ: 1/11/2007 - 18/5/2011
Trong vai trò một quan chức toàn cầu, ông đã chèo lái thành công IMF, xử lý đúng đắn vai trò của tổ chức tiền tệ này trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 và nhất là khủng hoảng nợ công ở châu Âu mới đây. Ông Strauss-Kahn đã giành được cảm tình của tất cả 27 thành viên Liên minh châu Âu cùng với Mỹ, châu Á và châu Phi, trong đó quan trọng nhất là Trung Quốc - siêu cường kinh tế mới của thế giới mà nước Pháp đang nỗ lực kết thân.
Đối với nhiều người Pháp, đặc biệt là những ai không hài lòng với đương kim Tổng thống Nicolas Sarkozy thì ông Strauss-Kahn chính là người thay thế thích hợp nhất trên cương vị Tổng thống Pháp nhiệm kỳ tới. Ông Strauss-Kahn, thành viên đảng Xã hội cánh tả, có những phẩm chất đủ làm thỏa mãn sự mong đợi của những người muốn thấy nước Pháp phải thay đổi hơn nữa.
Tuy nhiên, vụ bê bối của ông Strauss-Kahn liên quan tới một cáo buộc cưỡng ép tình dục nữ nhân viên dọn phòng, 32 tuổi, tại khách sạn Sofitel ở khu Manhattan, đã làm tiêu tan sự nghiệp của ông.