Chưa có khung pháp lý cho tập đoàn kinh tế
Chính phủ đã thí điểm thành lập 8 tập đoàn kinh tế Nhà nước, trên cơ sở các tổng công ty 91, theo kiểu “bình mới, rượu cũ”
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một khung pháp lý cho sự hình thành và phát triển của tập đoàn kinh tế.
Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ quy định: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn (?). Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”.
Chính phủ đã thí điểm thành lập 8 tập đoàn kinh tế Nhà nước, trên cơ sở các tổng công ty 91, theo kiểu “bình mới, rượu cũ”, như các tập đoàn Công nghiệp Cao su, Điện lực, Dầu khí, Than - Khoáng sản...
Ở khu vực kinh tế dân doanh, các tập đoàn kinh tế cũng đã dần dần hình thành theo qui luật vốn có của nền kinh tế thị trường, như Hòa Phát, Nam Long, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB)... Vì thế, thực tế đang đòi hỏi một khung pháp lý đầy đủ, đúng đắn cho sự hình thành và phát triển của tập đoàn kinh tế nói chung và cho tập đoàn kinh tế Nhà nước nói riêng.
Cơ sở kinh tế để xây dựng khung pháp lý
Kinh doanh là hoạt động đầu tư vốn vào một khâu hay toàn bộ quá trình làm ra hàng hóa vật phẩm hay dịch vụ để tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Chủ thể của hoạt động kinh doanh có thể là một cá nhân hay một tổ chức, tùy đặc điểm và quy mô kinh doanh của mỗi ngành hàng. Chủ thể kinh doanh là một tổ chức được gọi là doanh nghiệp. Căn cứ vào chế độ sở hữu và bản chất kinh tế - xã hội, luật pháp phân loại doanh nghiệp dưới các tên gọi như: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp dân doanh, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần...
Một doanh nghiệp ăn nên làm ra, có nhiều vốn tích lũy từ lãi sau thuế, đều có khát vọng tiếp tục phát triển bằng tái đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn nữa. Nhưng đầu tư vào đâu? Nếu cứ đầu tư vào chính doanh nghiệp đã tạo ra nguồn vốn tích lũy ấy thì có ba nguy cơ có thể xảy ra:
Thứ nhất, quy mô kinh doanh “quá tải” và quan liêu trong quản trị doanh nghiệp do lớn hơn khả năng quản lý của nhà quản trị doanh nghiệp, chuỗi quản trị trực tuyến sẽ bị kéo dài, cuối cùng, hậu quả là lợi nhuận ít, thậm chí thua lỗ.
Thứ hai, cung hàng hóa của doanh nghiệp sẽ vượt quá cầu của xã hội, dẫn đến giảm sút lợi nhuận hay thua lỗ.
Thứ ba, rủi ro kinh doanh cao cho chủ đầu tư, do “con thỏ chỉ có một hang duy nhất”.
Do đó, để khắc phục, hạn chế ba nguy cơ trên, doanh nghiệp này sẽ sử dụng vốn tích lũy của mình để đầu tư sang các ngành hàng khác, ở các vùng lãnh thổ khác, do các doanh nghiệp khác kinh doanh bằng nhiều cách, như lập doanh nghiệp mới, mua lại doanh nghiệp đã có, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần đại chúng đang niêm yết đến mức có quyền chi phối nó... Đó là một quá trình dài của sự tích lũy tư bản.
Cuối cùng, doanh nghiệp ban đầu sẽ trở thành chủ sở hữu vốn hay nắm tỷ lệ vốn chi phối trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp khác. Rồi thì nó cũng thoát ly khỏi hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực sản xuất hàng hóa cụ thể, mà chỉ hoạt động đầu tư, trở thành công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là chủ sở hữu vốn chi phối trong vốn điều lệ của nhiều doanh nghiệp khác.
Khi đó và chỉ khi đó mà thôi, tập đoàn kinh tế mới hình thành và phát triển theo hướng vừa đa lĩnh vực ngành hàng kinh doanh, vươn ra thị trường quốc gia và thế giới, vừa đa sở hữu. Trong đó, công ty mẹ thường cũng là một công ty cổ phần, hoạt động đầu tư vốn vào các doanh nghiệp con trên quy mô lớn. doanh nghiệp con có thể tồn tại dưới loại hình công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty TNHH hay công ty TNHH một thành viên là công ty mẹ.
Không thể có tình trạng vừa có cơ quan quản lý tài chính của tập đoàn, vừa có công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là công ty con của tập đoàn như trong các tập đoàn kinh tế nhà nước của ta hiện nay. Nguy hiểm hơn, khi ngân hàng thương mại với tư cách là công ty thành viên của tập đoàn và do đó bị sự chỉ huy, nhận lệnh của lãnh đạo tập đoàn với tư cách là cấp quản trị cấp trên, chứ không phải là cấp quản trị ngân hàng trong hoạt động tín dụng và đầu tư.
Vì vậy, tập đoàn kinh tế là kết quả của quá trình tích tụ tư bản trong nền kinh tế thị trường. Nó không có “ngày sinh, tháng đẻ”, không có ai ra quyết định thành lập hay đăng ký thành lập như doanh nghiệp, do đó nó không phải là một thực thể pháp lý, nó vô hình, không có tư cách pháp nhân.
Xét về bản chất, tập đoàn kinh tế trước hết không phải là một nhóm công ty có quy mô lớn như Luật Doanh nghiệp (2005) xác định. Càng không thể qui định trong tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ phải có ít nhất 7.000 tỷ đồng vốn sở hữu chủ. Chẳng lẽ khi giá cả thị trường thay đổi làm giảm giá trị công ty mẹ xuống dưới 7.000 tỷ đồng thì nó không còn là tập đoàn kinh tế?
Logic của tư duy là “nó là cái gì, rồi mới xem nó to hay nhỏ”, chứ không phải nó to tới mức nào thì nó là cái đó, còn nhỏ hơn thì không phải là cái đó, theo kiểu “tất cả con vật to đều là con voi, con voi mới sinh do còn nhỏ nên không phải là con voi”.
Quan hệ của các doanh nghiệp trong tập đoàn
Nhóm doanh nghiệp chỉ được gọi là tập đoàn kinh tế khi chúng có mối quan hệ sở hữu vốn đầu tư, trong đó có một doanh nghiệp nắm giữ tỉ lệ vốn điều lệ ở mức chi phối của các doanh nghiệp khác trong nhóm (không nhất thiết giữa chúng phải có mối quan hệ thị trường và công nghệ). Doanh nghiệp nắm giữ tỉ lệ vốn điều lệ ở mức chi phối được gọi là doanh nghiệp mẹ, doanh nghiệp chịu sự chi phối vốn của doanh nghiệp mẹ gọi là doanh nghiệp con.
Chúng hoạt động dưới cùng “màu cờ sắc áo”, logo và thương hiệu chung, tạo ra hình ảnh tập đoàn kinh tế ấn tượng sâu đậm trong xã hội mà không cần có sự công nhận nào của Nhà nước, không cần phải đạt mức 7.000 tỷ đồng vốn điều lệ của công ty mẹ. Chủ tịch hay tổng giám đốc công ty mẹ chính là người lãnh đạo cao nhất của tập đoàn; không có chức chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc tập đoàn chung chung, không của một doanh nghiệp cụ thể nào, không chịu trách nhiệm cụ thể về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như trong tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Trong tập đoàn kinh tế, cũng như trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa các doanh nghiệp chỉ có thể là bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh, hoặc là quan hệ sở hữu vốn đầu tư, giữa một bên là chủ sở hữu vốn với tư cách là một cá nhân (thể nhân) hay một tổ chức (doanh nghiệp, các đoàn thể, Nhà nước) và một bên là doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư đó để kinh doanh. Không có doanh nghiệp cấp trên, doanh nghiệp cấp dưới theo kiểu thứ bậc hành chính như trong một tổ chức.
Bởi vì tiêu chí cơ bản nhất xác định một tổ chức có là doanh nghiệp hay không là quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả, hiệu quả kinh doanh.
Nếu tổng công ty 90 - 91 hay tập đoàn có các quyền đó thì có nghĩa nó mới là doanh nghiệp, còn các “doanh nghiệp thành viên” tuy được pháp luật công nhận tư cách pháp nhân, không phải là doanh nghiệp mà chỉ là một tổ chức phụ thuộc, như các nhà máy, phân xưởng hạch toán báo sổ. Khi đó tập đoàn, tổng công ty trở thành một tổ chức kinh doanh khổng lồ, với chuỗi cấp quản trị quá dài, nhất là ở các tập đoàn có cơ cấu tổng công ty, có khi tới 6 - 7 cấp, gây ra tình trạng quá tải, quan liêu trầm trọng trong quản trị và hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí thua lỗ.
Ngược lại, nếu các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty 90 - 91 hay tập đoàn kinh tế có quyền tự chủ kinh doanh thì có nghĩa là tập đoàn, tổng công ty không phải là doanh nghiệp. Khi đó, nó trở thành một cấp hành chính trung gian, không phải doanh nghiệp, không phải nhà nước, gây cản trở thậm chí là gánh nặng cho các doanh nghiệp thành viên. Nó là một tổ chức không định nghĩa được.
Do vậy, trong nền kinh tế thị trường, không có khái niệm tổng công ty hay tập đoàn kinh tế với tư cách là một cơ quan cấp trên của doanh nghiệp như trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Và cũng không ở đâu như Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước tự quyền sử dụng lãi sau thuế để đầu tư tràn lan, không cần được phép của chủ sở hữu là Nhà nước; lời thì doanh nghiệp hưởng, (chỉ phải nộp thuế cho Nhà nước như doanh nghiệp dân doanh), lỗ thì Nhà nước chịu với tư cách là chủ sở hữu.
Điều này tuyệt đối không xảy ra trong doanh nghiệp dân doanh. Đó là điều rất không bình thường, tạo ra tiêu cực, lãng phí to lớn cho nền kinh tế. Trong tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ cũng nên là công ty cổ phần và nhà nước chỉ cần nắm giữ 51% vốn điều lệ của công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn ở mức chi phối trong vốn điều lệ của công ty con, nhà nước không trực tiếp đầu tư vốn vào công ty con như dự thảo nghị định của Chính phủ về tập đoàn kinh tế Nhà nước.
Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ quy định: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn (?). Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”.
Chính phủ đã thí điểm thành lập 8 tập đoàn kinh tế Nhà nước, trên cơ sở các tổng công ty 91, theo kiểu “bình mới, rượu cũ”, như các tập đoàn Công nghiệp Cao su, Điện lực, Dầu khí, Than - Khoáng sản...
Ở khu vực kinh tế dân doanh, các tập đoàn kinh tế cũng đã dần dần hình thành theo qui luật vốn có của nền kinh tế thị trường, như Hòa Phát, Nam Long, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB)... Vì thế, thực tế đang đòi hỏi một khung pháp lý đầy đủ, đúng đắn cho sự hình thành và phát triển của tập đoàn kinh tế nói chung và cho tập đoàn kinh tế Nhà nước nói riêng.
Cơ sở kinh tế để xây dựng khung pháp lý
Kinh doanh là hoạt động đầu tư vốn vào một khâu hay toàn bộ quá trình làm ra hàng hóa vật phẩm hay dịch vụ để tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Chủ thể của hoạt động kinh doanh có thể là một cá nhân hay một tổ chức, tùy đặc điểm và quy mô kinh doanh của mỗi ngành hàng. Chủ thể kinh doanh là một tổ chức được gọi là doanh nghiệp. Căn cứ vào chế độ sở hữu và bản chất kinh tế - xã hội, luật pháp phân loại doanh nghiệp dưới các tên gọi như: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp dân doanh, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần...
Một doanh nghiệp ăn nên làm ra, có nhiều vốn tích lũy từ lãi sau thuế, đều có khát vọng tiếp tục phát triển bằng tái đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn nữa. Nhưng đầu tư vào đâu? Nếu cứ đầu tư vào chính doanh nghiệp đã tạo ra nguồn vốn tích lũy ấy thì có ba nguy cơ có thể xảy ra:
Thứ nhất, quy mô kinh doanh “quá tải” và quan liêu trong quản trị doanh nghiệp do lớn hơn khả năng quản lý của nhà quản trị doanh nghiệp, chuỗi quản trị trực tuyến sẽ bị kéo dài, cuối cùng, hậu quả là lợi nhuận ít, thậm chí thua lỗ.
Thứ hai, cung hàng hóa của doanh nghiệp sẽ vượt quá cầu của xã hội, dẫn đến giảm sút lợi nhuận hay thua lỗ.
Thứ ba, rủi ro kinh doanh cao cho chủ đầu tư, do “con thỏ chỉ có một hang duy nhất”.
Do đó, để khắc phục, hạn chế ba nguy cơ trên, doanh nghiệp này sẽ sử dụng vốn tích lũy của mình để đầu tư sang các ngành hàng khác, ở các vùng lãnh thổ khác, do các doanh nghiệp khác kinh doanh bằng nhiều cách, như lập doanh nghiệp mới, mua lại doanh nghiệp đã có, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần đại chúng đang niêm yết đến mức có quyền chi phối nó... Đó là một quá trình dài của sự tích lũy tư bản.
Cuối cùng, doanh nghiệp ban đầu sẽ trở thành chủ sở hữu vốn hay nắm tỷ lệ vốn chi phối trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp khác. Rồi thì nó cũng thoát ly khỏi hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực sản xuất hàng hóa cụ thể, mà chỉ hoạt động đầu tư, trở thành công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là chủ sở hữu vốn chi phối trong vốn điều lệ của nhiều doanh nghiệp khác.
Khi đó và chỉ khi đó mà thôi, tập đoàn kinh tế mới hình thành và phát triển theo hướng vừa đa lĩnh vực ngành hàng kinh doanh, vươn ra thị trường quốc gia và thế giới, vừa đa sở hữu. Trong đó, công ty mẹ thường cũng là một công ty cổ phần, hoạt động đầu tư vốn vào các doanh nghiệp con trên quy mô lớn. doanh nghiệp con có thể tồn tại dưới loại hình công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty TNHH hay công ty TNHH một thành viên là công ty mẹ.
Không thể có tình trạng vừa có cơ quan quản lý tài chính của tập đoàn, vừa có công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là công ty con của tập đoàn như trong các tập đoàn kinh tế nhà nước của ta hiện nay. Nguy hiểm hơn, khi ngân hàng thương mại với tư cách là công ty thành viên của tập đoàn và do đó bị sự chỉ huy, nhận lệnh của lãnh đạo tập đoàn với tư cách là cấp quản trị cấp trên, chứ không phải là cấp quản trị ngân hàng trong hoạt động tín dụng và đầu tư.
Vì vậy, tập đoàn kinh tế là kết quả của quá trình tích tụ tư bản trong nền kinh tế thị trường. Nó không có “ngày sinh, tháng đẻ”, không có ai ra quyết định thành lập hay đăng ký thành lập như doanh nghiệp, do đó nó không phải là một thực thể pháp lý, nó vô hình, không có tư cách pháp nhân.
Xét về bản chất, tập đoàn kinh tế trước hết không phải là một nhóm công ty có quy mô lớn như Luật Doanh nghiệp (2005) xác định. Càng không thể qui định trong tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ phải có ít nhất 7.000 tỷ đồng vốn sở hữu chủ. Chẳng lẽ khi giá cả thị trường thay đổi làm giảm giá trị công ty mẹ xuống dưới 7.000 tỷ đồng thì nó không còn là tập đoàn kinh tế?
Logic của tư duy là “nó là cái gì, rồi mới xem nó to hay nhỏ”, chứ không phải nó to tới mức nào thì nó là cái đó, còn nhỏ hơn thì không phải là cái đó, theo kiểu “tất cả con vật to đều là con voi, con voi mới sinh do còn nhỏ nên không phải là con voi”.
Quan hệ của các doanh nghiệp trong tập đoàn
Nhóm doanh nghiệp chỉ được gọi là tập đoàn kinh tế khi chúng có mối quan hệ sở hữu vốn đầu tư, trong đó có một doanh nghiệp nắm giữ tỉ lệ vốn điều lệ ở mức chi phối của các doanh nghiệp khác trong nhóm (không nhất thiết giữa chúng phải có mối quan hệ thị trường và công nghệ). Doanh nghiệp nắm giữ tỉ lệ vốn điều lệ ở mức chi phối được gọi là doanh nghiệp mẹ, doanh nghiệp chịu sự chi phối vốn của doanh nghiệp mẹ gọi là doanh nghiệp con.
Chúng hoạt động dưới cùng “màu cờ sắc áo”, logo và thương hiệu chung, tạo ra hình ảnh tập đoàn kinh tế ấn tượng sâu đậm trong xã hội mà không cần có sự công nhận nào của Nhà nước, không cần phải đạt mức 7.000 tỷ đồng vốn điều lệ của công ty mẹ. Chủ tịch hay tổng giám đốc công ty mẹ chính là người lãnh đạo cao nhất của tập đoàn; không có chức chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc tập đoàn chung chung, không của một doanh nghiệp cụ thể nào, không chịu trách nhiệm cụ thể về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như trong tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Trong tập đoàn kinh tế, cũng như trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa các doanh nghiệp chỉ có thể là bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh, hoặc là quan hệ sở hữu vốn đầu tư, giữa một bên là chủ sở hữu vốn với tư cách là một cá nhân (thể nhân) hay một tổ chức (doanh nghiệp, các đoàn thể, Nhà nước) và một bên là doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư đó để kinh doanh. Không có doanh nghiệp cấp trên, doanh nghiệp cấp dưới theo kiểu thứ bậc hành chính như trong một tổ chức.
Bởi vì tiêu chí cơ bản nhất xác định một tổ chức có là doanh nghiệp hay không là quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả, hiệu quả kinh doanh.
Nếu tổng công ty 90 - 91 hay tập đoàn có các quyền đó thì có nghĩa nó mới là doanh nghiệp, còn các “doanh nghiệp thành viên” tuy được pháp luật công nhận tư cách pháp nhân, không phải là doanh nghiệp mà chỉ là một tổ chức phụ thuộc, như các nhà máy, phân xưởng hạch toán báo sổ. Khi đó tập đoàn, tổng công ty trở thành một tổ chức kinh doanh khổng lồ, với chuỗi cấp quản trị quá dài, nhất là ở các tập đoàn có cơ cấu tổng công ty, có khi tới 6 - 7 cấp, gây ra tình trạng quá tải, quan liêu trầm trọng trong quản trị và hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí thua lỗ.
Ngược lại, nếu các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty 90 - 91 hay tập đoàn kinh tế có quyền tự chủ kinh doanh thì có nghĩa là tập đoàn, tổng công ty không phải là doanh nghiệp. Khi đó, nó trở thành một cấp hành chính trung gian, không phải doanh nghiệp, không phải nhà nước, gây cản trở thậm chí là gánh nặng cho các doanh nghiệp thành viên. Nó là một tổ chức không định nghĩa được.
Do vậy, trong nền kinh tế thị trường, không có khái niệm tổng công ty hay tập đoàn kinh tế với tư cách là một cơ quan cấp trên của doanh nghiệp như trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Và cũng không ở đâu như Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước tự quyền sử dụng lãi sau thuế để đầu tư tràn lan, không cần được phép của chủ sở hữu là Nhà nước; lời thì doanh nghiệp hưởng, (chỉ phải nộp thuế cho Nhà nước như doanh nghiệp dân doanh), lỗ thì Nhà nước chịu với tư cách là chủ sở hữu.
Điều này tuyệt đối không xảy ra trong doanh nghiệp dân doanh. Đó là điều rất không bình thường, tạo ra tiêu cực, lãng phí to lớn cho nền kinh tế. Trong tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ cũng nên là công ty cổ phần và nhà nước chỉ cần nắm giữ 51% vốn điều lệ của công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn ở mức chi phối trong vốn điều lệ của công ty con, nhà nước không trực tiếp đầu tư vốn vào công ty con như dự thảo nghị định của Chính phủ về tập đoàn kinh tế Nhà nước.