Dệt may: “Mục tiêu xuất khẩu 10-12 tỷ USD nằm trong tầm tay”
Nội dung cuộc trao đổi của VnEconomy với ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu từ 10-12 tỷ USD vào năm 2010.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ các doanh nghiệp cũng như sự quan tâm của Chính phủ. Sau đây là cuộc trao đổi của VnEconomy với ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam.
Ông có thể nói đôi nét về cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam hiện nay?
Có thể nói giai đoạn hiện nay là một giai đoạn rất đặc biệt của ngành dệt may Việt Nam. Chúng ta đã hội nhập hoàn toàn với dệt may của thế giới. Vì vậy ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những cơ hội rất lớn để thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để ngành dệt may trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai.
Tuy nhiên, ngành dệt chúng ta cũng đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đó chính là những rào cản thương mại mà các quốc gia khác đang áp dụng đối với các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Đồng thời, gia nhập WTO, dệt may Việt Nam cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác, đặc biệt là các nước có ngành dệt may phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ…
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng về năng lực sản xuất và xuất khẩu tăng gấp đôi (đạt từ 10-12 tỷ USD) vào năm 2010, đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành, trong đó các doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình một chiến lược riêng, phù hợp với điều kiện và năng lực của từng doanh nghiệp.
Về phía Hiệp hội, chúng tôi xác định phải đẩy mạnh xúc tiến một số hoạt động mà các doanh nghiệp riêng lẻ không thể làm được hoặc làm nhưng không có lợi. Đó là việc liên kết các doanh nghiệp lại với nhau trong các chương trình lớn như : cùng nhau đi ra nước ngoài để giới thiệu với thế giới hình ảnh dệt may Việt Nam; cùng nhau hợp lực để chống lại những rào cản thương mại; đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, các trung tâm nguyên liệu lớn…
Giá trị xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2006 là tương đối cao, đạt gần 6 tỷ USD (chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của ngành vào lúc này là chưa chủ động được nguồn nguyên phụ liệu (nhập khẩu gần 70%). Vậy ngành dệt may có chiến lược gì để không còn mang tiếng là “đi trên đôi chân của người khác”?
Đúng là trong thời gian qua, dệt may đã có được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ, đạt 20%/năm luôn là ngành xuất khẩu lớn thứ hai, chỉ sau dầu khí. Tuy nhiên, do không chủ dộng được nguồn nguyên, phụ liệu cho nên lợi nhuận doanh nghiệp dệt may thu về là rất thấp so với tổng giá trị xuất khẩu. Đây cũng đang là điều băn khoăn không chỉ của riêng ngành dệt may mà là của cả các cấp, ngành quản lý khác.
Vì vậy, hiện nay chúng tôi đã và đang xây dựng một số chương trình trọng điểm cho ngành dệt may đến năm 2010. Cụ thể: tập trung đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp để đủ sức cung ứng cho nhu cầu dệt; phát triển bông xơ sợi nội địa; đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015; chương trình nâng cao chất lượng ngành dệt, nhộm; xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư.
Ngoài ra, một chương trình thời trang hóa ngành dệt may cũng đang được chúng tôi đẩy mạnh xúc tiến nhằm phát triển đông đảo đội ngũ thiết kế thời trang, cùng với việc xây dựng hình ảnh thời trang Việt Nam, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm có đẳng cấp.
Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ xây dựng 2 tổ hợp thương mại-văn hóa-du lịch tại Hà Nội và Tp.HCM; xây dựng 3 trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại Tp.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng, kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của 3 trung tâm trên. Đông thời, sẽ tập trung đào tạo khoảng 500 cán bộ trong nước và 100 cán bộ tại nước ngoài chuyên ngành thiết kế thời trang, công nghiệp, tiếp thị dệt may.
Cơ sở nào để ngành dệt may có thể đề ra mục tiêu xuất khẩu 10-12 tỷ USD vào năm 2010, thưa ông?
Năm 2006, xuất khẩu của toàn ngành dệt may đạt gần 6 tỷ USD. Trong 2 năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 20%/năm.
Chính vì vậy, chúng tôi nhận định, trong thời gian tới, dù phải đối mặt với những rào cản thương mại nhưng tăng trưởng xuất khẩu dệt may vẫn sẽ đạt trung bình khoảng 20%/năm, còn nếu không có rào cản sẽ khoảng 30%/năm. Như vậy, căn cứ vào con số 6 tỷ USD của năm 2006 thì mục tiêu 10-12 tỷ USD vào năm 2010 là hợp lý và phù hợp với năng lực của toàn ngành.
Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng mở ra cho ngành dệt may Việt Nam cơ hội xâm nhập nhiều thị trường mới đồng thời cũng sẽ đón nhận nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, sản xuất tại Việt Nam. Đặc biệt, trong thời gian tới, xu hướng chuyển dịch sản xuất từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông là khá lớn. Điều này sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam.
Thế nhưng các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam cũng có những tham vọng rất lớn trong việc đề ra mục tiêu xuất khẩu. Vậy thì mục tiêu 10-12 tỷ USD của chúng ta liệu có thành hiện thực?
Đúng là các nước cạnh tranh với chúng ta đều đề ra những mục tiêu xuất khẩu tăng gấp đôi hiện tại. Chẳng hạn như Trung Quốc đề ra mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu tăng 50% vào năm 2010; Ấn Độ đề ra mục tiêu 25 tỷ USD và Bangladesh tăng gấp đôi lên 18 tỷ USD…
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, nếu có một sự nỗ lực của Hiệp hội, các doanh nghiệp và các cơ quan Chính phủ để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, đặc biệt là để đối phó một cách hiệu quả các rào cản thương mại thì tôi tin rằng, mục tiêu 10-12 tỷ là nằm trong khả năng của chúng ta.
Vậy để đạt được mục tiêu trên, ngành dệt may cần phải tập trung vào những vấn đề gì, thưa ông?
Vừa qua tại Đại hội III của Hiệp hội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có chỉ đạo rất sâu sát đối với ngành dệt may Việt Nam. Đó là phải xây dựng được mối quan hệ lao động hài hòa, trong đó phải nâng cao đời sống và điều kiện làm việc của người lao động để từ đó tạo ra yếu tố cạnh tranh nhất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay là lực lượng lao động dồi dào và giá cả hợp lý.
Vấn đề thứ hai là phải làm sao để tăng năng lực cạnh tranh thông qua việc tăng tỷ lệ nội địa hóa, tức là tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ nguyên phụ liệu trong nước, giúp các doanh nghiệp dệt may giảm thiểu tối đa việc nhập khẩu nguyên phụ liêu, từ đó tăng lợi nhuận và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Và vấn đề thứ ba là đào tạo các chuyên gia cấp cao, đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao ở tất cả các khâu của ngành dệt may.Nếu làm được điều đó, tôi tin chắc rằng, ngành dệt may sẽ còn phát triển nhiều hơn nữa.
Ông có bình luận gì về khả năng Bộ Thương mại Mỹ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng dệt may của Việt Nam?
Tôi cho rằng, trong năm 2007 thì Bộ Thương mại cũng như Hiệp hội dệt may Mỹ chỉ theo dõi chứ họ không áp dụng. Và việc họ có áp dụng trong năm 2008 hay không thì còn tùy thuộc vào những kết quả của năm 2007 và sự vận động của chúng ta như thế nào.
Tôi tin rằng, mọi sự vẫn sẽ tốt đẹp đối với ngành dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ các doanh nghiệp cũng như sự quan tâm của Chính phủ. Sau đây là cuộc trao đổi của VnEconomy với ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam.
Ông có thể nói đôi nét về cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam hiện nay?
Có thể nói giai đoạn hiện nay là một giai đoạn rất đặc biệt của ngành dệt may Việt Nam. Chúng ta đã hội nhập hoàn toàn với dệt may của thế giới. Vì vậy ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những cơ hội rất lớn để thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để ngành dệt may trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai.
Tuy nhiên, ngành dệt chúng ta cũng đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đó chính là những rào cản thương mại mà các quốc gia khác đang áp dụng đối với các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Đồng thời, gia nhập WTO, dệt may Việt Nam cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác, đặc biệt là các nước có ngành dệt may phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ…
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng về năng lực sản xuất và xuất khẩu tăng gấp đôi (đạt từ 10-12 tỷ USD) vào năm 2010, đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành, trong đó các doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình một chiến lược riêng, phù hợp với điều kiện và năng lực của từng doanh nghiệp.
Về phía Hiệp hội, chúng tôi xác định phải đẩy mạnh xúc tiến một số hoạt động mà các doanh nghiệp riêng lẻ không thể làm được hoặc làm nhưng không có lợi. Đó là việc liên kết các doanh nghiệp lại với nhau trong các chương trình lớn như : cùng nhau đi ra nước ngoài để giới thiệu với thế giới hình ảnh dệt may Việt Nam; cùng nhau hợp lực để chống lại những rào cản thương mại; đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, các trung tâm nguyên liệu lớn…
Giá trị xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2006 là tương đối cao, đạt gần 6 tỷ USD (chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của ngành vào lúc này là chưa chủ động được nguồn nguyên phụ liệu (nhập khẩu gần 70%). Vậy ngành dệt may có chiến lược gì để không còn mang tiếng là “đi trên đôi chân của người khác”?
Đúng là trong thời gian qua, dệt may đã có được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ, đạt 20%/năm luôn là ngành xuất khẩu lớn thứ hai, chỉ sau dầu khí. Tuy nhiên, do không chủ dộng được nguồn nguyên, phụ liệu cho nên lợi nhuận doanh nghiệp dệt may thu về là rất thấp so với tổng giá trị xuất khẩu. Đây cũng đang là điều băn khoăn không chỉ của riêng ngành dệt may mà là của cả các cấp, ngành quản lý khác.
Vì vậy, hiện nay chúng tôi đã và đang xây dựng một số chương trình trọng điểm cho ngành dệt may đến năm 2010. Cụ thể: tập trung đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp để đủ sức cung ứng cho nhu cầu dệt; phát triển bông xơ sợi nội địa; đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015; chương trình nâng cao chất lượng ngành dệt, nhộm; xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư.
Ngoài ra, một chương trình thời trang hóa ngành dệt may cũng đang được chúng tôi đẩy mạnh xúc tiến nhằm phát triển đông đảo đội ngũ thiết kế thời trang, cùng với việc xây dựng hình ảnh thời trang Việt Nam, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm có đẳng cấp.
Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ xây dựng 2 tổ hợp thương mại-văn hóa-du lịch tại Hà Nội và Tp.HCM; xây dựng 3 trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại Tp.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng, kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của 3 trung tâm trên. Đông thời, sẽ tập trung đào tạo khoảng 500 cán bộ trong nước và 100 cán bộ tại nước ngoài chuyên ngành thiết kế thời trang, công nghiệp, tiếp thị dệt may.
Cơ sở nào để ngành dệt may có thể đề ra mục tiêu xuất khẩu 10-12 tỷ USD vào năm 2010, thưa ông?
Năm 2006, xuất khẩu của toàn ngành dệt may đạt gần 6 tỷ USD. Trong 2 năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 20%/năm.
Chính vì vậy, chúng tôi nhận định, trong thời gian tới, dù phải đối mặt với những rào cản thương mại nhưng tăng trưởng xuất khẩu dệt may vẫn sẽ đạt trung bình khoảng 20%/năm, còn nếu không có rào cản sẽ khoảng 30%/năm. Như vậy, căn cứ vào con số 6 tỷ USD của năm 2006 thì mục tiêu 10-12 tỷ USD vào năm 2010 là hợp lý và phù hợp với năng lực của toàn ngành.
Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng mở ra cho ngành dệt may Việt Nam cơ hội xâm nhập nhiều thị trường mới đồng thời cũng sẽ đón nhận nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, sản xuất tại Việt Nam. Đặc biệt, trong thời gian tới, xu hướng chuyển dịch sản xuất từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông là khá lớn. Điều này sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam.
Thế nhưng các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam cũng có những tham vọng rất lớn trong việc đề ra mục tiêu xuất khẩu. Vậy thì mục tiêu 10-12 tỷ USD của chúng ta liệu có thành hiện thực?
Đúng là các nước cạnh tranh với chúng ta đều đề ra những mục tiêu xuất khẩu tăng gấp đôi hiện tại. Chẳng hạn như Trung Quốc đề ra mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu tăng 50% vào năm 2010; Ấn Độ đề ra mục tiêu 25 tỷ USD và Bangladesh tăng gấp đôi lên 18 tỷ USD…
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, nếu có một sự nỗ lực của Hiệp hội, các doanh nghiệp và các cơ quan Chính phủ để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, đặc biệt là để đối phó một cách hiệu quả các rào cản thương mại thì tôi tin rằng, mục tiêu 10-12 tỷ là nằm trong khả năng của chúng ta.
Vậy để đạt được mục tiêu trên, ngành dệt may cần phải tập trung vào những vấn đề gì, thưa ông?
Vừa qua tại Đại hội III của Hiệp hội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có chỉ đạo rất sâu sát đối với ngành dệt may Việt Nam. Đó là phải xây dựng được mối quan hệ lao động hài hòa, trong đó phải nâng cao đời sống và điều kiện làm việc của người lao động để từ đó tạo ra yếu tố cạnh tranh nhất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay là lực lượng lao động dồi dào và giá cả hợp lý.
Vấn đề thứ hai là phải làm sao để tăng năng lực cạnh tranh thông qua việc tăng tỷ lệ nội địa hóa, tức là tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ nguyên phụ liệu trong nước, giúp các doanh nghiệp dệt may giảm thiểu tối đa việc nhập khẩu nguyên phụ liêu, từ đó tăng lợi nhuận và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Và vấn đề thứ ba là đào tạo các chuyên gia cấp cao, đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao ở tất cả các khâu của ngành dệt may.Nếu làm được điều đó, tôi tin chắc rằng, ngành dệt may sẽ còn phát triển nhiều hơn nữa.
Ông có bình luận gì về khả năng Bộ Thương mại Mỹ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng dệt may của Việt Nam?
Tôi cho rằng, trong năm 2007 thì Bộ Thương mại cũng như Hiệp hội dệt may Mỹ chỉ theo dõi chứ họ không áp dụng. Và việc họ có áp dụng trong năm 2008 hay không thì còn tùy thuộc vào những kết quả của năm 2007 và sự vận động của chúng ta như thế nào.
Tôi tin rằng, mọi sự vẫn sẽ tốt đẹp đối với ngành dệt may Việt Nam.