10:03 06/08/2010

Doanh nghiệp “gia đình trị” chưa thể hết thời?

Kiều oanh

Mô hình doanh nghiệp gia đình, kiểu như các chaebol của Hàn Quốc, vẫn còn rất nhiều lý do để tồn tại

Chủ tịch tập đoàn Samsung, ông Lee Kun-hee (thứ hai từ trái sang) và con trai Lee Jay-yong (thứ tư từ trái sang), tại một lễ động thổ xây dựng nhà máy ở Seoul, Hàn Quốc - Ảnh: AP.
Chủ tịch tập đoàn Samsung, ông Lee Kun-hee (thứ hai từ trái sang) và con trai Lee Jay-yong (thứ tư từ trái sang), tại một lễ động thổ xây dựng nhà máy ở Seoul, Hàn Quốc - Ảnh: AP.
Mô hình quản lý doanh nghiệp kiểu “gia đình trị” khá phổ biến ở châu Á và đã gây ra nhiều ý kiến đánh giá trái chiều. Trong một bài báo đăng trên tờ Financial Times, tác giả Geoff Owen cho rằng, mô hình này còn rất nhiều lý do để tồn tại, thậm chí là có nhiều ưu điểm so với cách quản trị doanh nghiệp phương Tây.

Khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á “đổ bộ” vào Hàn Quốc năm 1997, nhiều nhà bình luận tin rằng, những rắc rối mà nước này gặp phải một phần xuất phát từ quyền lực của các tập đoàn lớn  nằm dưới sự kiểm soát của các gia đình (chaebol). Những chaebol lớn nhất của Hàn Quốc là Samsung, Hyundai, LG và Daewoo.

Các ý kiến phê bình nhận định, những tập đoàn này chiếm lĩnh quá nhiều ngành công nghiệp, có mối quan hệ quá thân thiết với Chính phủ nên có đặc quyền tiếp cận với nguồn vốn lãi suất thấp, còn sự sắp xếp quản lý trong các tập đoàn này thì không minh bạch. Bởi thế, những người phản đối cho rằng, cần thực hiện cải cách để các tập đoàn này được đưa về dưới sự quản lý theo kiểu của phương Tây.

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã gây ra nhiều tổn thất cho Hàn Quốc. Một số cải cách đã được nước này thực hiện, và các chaebol đã ít nhiều hứng chịu tác động, trong đó phải kể tới sự sụp đổ của tập đoàn Daewoo. Tuy nhiên, các chaebol có cách quản lý tốt hơn đã thích nghi được với môi trường mới - trong đó có những yêu tố mới bao gồm sự hiện diện nhiều hơn của các nhà đầu tư nước ngoài - và tới giờ vẫn đóng vai trò xương sống trong nền kinh tế Hàn Quốc

Quyền sở hữu lĩnh vực công nghiệp của Hàn Quốc ngày nay không khác là mấy so với thời kỳ trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính châu Á. Tập đoàn Samsung Group vẫn nằm dưới sự kiểm soát của gia đình Lee, LG là của nhà Koo, Hyundai thuộc về gia tộc Chung, và SK của họ Chey.

Vậy điều này có thể kéo dài bao lâu? Nhiều chuyên gia phương Tây thì cho rằng, cùng với sự lớn mạnh trên thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp đến từ các nền kinh tế mới nỏi sẽ cần phải thay đổi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ Mỹ và châu Âu. Sự thay đổi này bao gồm: tập trung vào một số ít lĩnh vực, giảm bớt vai trò của gia đình sáng lập và mở rộng quyền sở hữu cổ phần.

Nhưng giống như ở Samsung của Hàn Quốc, Tata của Ấn Độ và nhiều trường hợp khác cho thấy, chế độ “gia đình trị” và đa dạng hóa ngành nghề không hề mâu thuẫn với sự thành công trong cạnh tranh, thậm chí ở cả những thị trường có mức độ đòi hỏi cao nhất.

Trong khi đó, lối quản trị doanh nghiệp kiểu phương Tây đã tỏ ra kém ấn tượng trong vòng 3 năm trở lại đây. Liệu có thể cho rằng, trong trường hợp này, doanh nghiệp ở các nước phát triển nên học theo cách làm của các công ty thuộc nền kinh tế mới nổi, thay vì ngược lại? Mặc dù Hàn Quốc là trường hợp ngoại lệ về quy mô và sức mạnh của các tập đoàn gia đình, nhiều quốc gia phát triển khác cũng có cấu trúc công nghiệp tương tự như của nước này.

Các tập đoàn gia đình như Tata và Birla ở Ấn Độ, Koc và Sabanci ở Thổ Nhĩ Kỳ, hay tập đoàn Carso của tỷ phú giàu nhất thế giới Carlos Slim ở Mexico… chính là những thành phần hùng mạnh của nền kinh tế nội địa ở các nước này, đồng thời đang ngày càng trở nên năng động ở thị trường nước ngoài. Công ty con của các tập đoàn này, như Tata Motors hay Tata Steel của Tata, độc lập về mặt pháp lý với hãng mẹ và thường được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán trong nước, nhưng vẫn có mối liên hệ mật thiết với gia đình sáng lập tập đoàn thông qua quyền sở hữu cổ phần và quyền lãnh đạo chéo.

Về phương diện này, các tập đoàn “gia đình trị” của châu Á rất khác so với các tập đoàn lớn của Mỹ như GE - tập đoàn có toàn quyền kiểm soát các chi nhánh và quyền sở hữu cổ phần phân tán.

Trong cuốn sách tựa đề The Oxford Handbook of Business Groups (tạm dịch: “Sổ tay về các tập đoàn”) do Đại học Oxford xuất bản, hai tác giả Tarun Khanna và Yishay Yafeh lý giải rằng, một phần sự hợp lý phía sau những tập đoàn gia đình xuất phát từ việc các doanh nghiệp này bù đắp cho những định chế kinh tế còn thiếu vắng hoặc chưa thực sự phát triển ở các nền kinh tế mới nổi.

Ở những nơi mà thị trường vốn đại chúng còn nhỏ bé hoặc chưa tồn tại, sẽ là điểm rất có ý nghĩa nếu các chủ doanh nghiệp có thể tự mình phân bổ các nguồn vốn trong nội bộ tập đoàn và đầu tư nguồn vốn dư thừa sang các doanh nghiệp khác mà họ trực tiếp điều hành. Ở đâu mà hệ thống luật pháp còn chưa hoàn chỉnh và niềm tin vào các mối quan hệ thương mại còn chưa cao, chủ doanh nghiệp có thể giảm bớt rủi ro bằng cách đưa bà con vào các vị trí lãnh đạo then chốt trong công ty. Họ cũng có thể phát triển một thị trường lao động nội bộ.

Một đồng tác giả khác của cuốn Oxford Handbook of Business Groups là Randall Morck thì cho rằng, các tập đoàn gia đình để những người có tài di chuyển giữa các công ty trong tập đoàn mà không cần phụ thuộc vào thị trường nhân lực bên ngoài vốn không thiếu những người mang bằng cấp giả. “Ngôi trường kinh doanh tốt nhất ở một quốc gia như vậy có thể chính là bàn ăn tối của một gia đình kinh doanh hùng mạnh”, Morck viết.

Không phải tập đoàn “gia đình trị” nào cũng có tư tưởng vươn ra thị trường quốc tế. Theo đồng tác giả Mauro Guillen của cuốn Oxford Handbook of Business Groups, những doanh nghiệp như vậy thường được lợi từ cơ chế chính sách khuyến khích các công ty trong nước xuất khẩu, đồng thời hạn chế đầu tư từ các công ty đa quốc gia đến từ bên ngoài. Trong điều kiện như vậy, các doanh nhân - đôi khi với sự trợ lực của chính phủ - có thể tập hợp các nguồn lực và kỹ năng để đặt chân vào một ngành công nghiệp mới - từ nghiên cứu khả thi, xin giấy phép, sắp xếp các gói tài chính, tiếp thu công nghệ nước ngoài, thuê và đào tạo nhân lực. Ở một phương diện nào đó, đây là những kỹ năng có thể được áp dụng sang các ngành công nghiệp khác.

Một câu hỏi lớn đặt ra là liệu cấu trúc này giờ đã trở nên kém hiệu quả, thậm chí là phản tác dụng, khi mà quốc gia đó đã hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Mối rủi ro ở đây là những tập đoàn lớn có thể sẽ thao túng thị trường để phục vụ cho lợi ích của họ và tìm cách “dìm” sự nổi lên của những doanh nghiệp mang tính chuyên môn hóa cao.

Chẳng hạn như ở Hàn Quốc, ông Hicheon Kim, một đồng tác giả khác của cuốn Oxford Handbook of Business Groups, đã chỉ ra rằng, thị trường Internet chủ yếu được phát triển bởi các chaebol. Với nguồn lực tài chính, quyền tiếp cận các kênh phân phối và thương hiệu đem đến cho các chaebol lợi thế trên thị trường Internet. Trong khi đó, tại Mỹ, thị trường này nằm dưới sự cạnh tranh của các công ty công nghệ lớn như Amazon hay Google.

Để tránh sự thao túng của các chaebol, một chính sách cạnh tranh nghiêm ngặt là điều cần thiết, cùng với đó là một hệ thống tài chính cho phép các công ty mới thành lập có thể tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn.

Tuy nhiên, thậm chí cả khi sân chơi là bình đẳng hoàn toàn, chưa chắc các tập đoàn gia đình có thể bị thay thế bởi những công ty có mô hình tổ chức kiểu phương Tây. Lối quản trị doanh nghiệp phương Tây có một thiếu sót lớn, đó là sự thiếu vắng của những người chủ sở hữu với mục đích hàng đầu là sức khỏe dài hạn của công ty. Đây là một khoảng trống mà gia đình kiểm soát có thể lấp đầy. Trên thực tế, ở phương Tây cũng đã có nhiều công ty gia đình như Wallenbergs của Thụy Điển hoạt động hiệu quả.

Một ví dụ về sự thành công của doanh nghiệp gia đình là công ty Jardine Matheson có trụ sở ở Hồng Kông, niêm yết trên thị trường chứng khoán London. Hoạt động trong nhiều lĩnh vực, chủ yếu ở Trung Quốc và Đông Nam Á, công ty này đã cho thấy rõ nét những lợi ích lâu dài của mô hình “gia đình trị” và sự đa dạng hóa trong kinh doanh. Được thành lập vào năm 1832 bởi hai thương nhân người Scotland, Jardin Matheson là một trong những tập đoàn lớn nhất và có lợi nhuận cao nhất ở châu Á, với lợi nhuận trước thuế 3 tỷ USd và tổng doanh thu 36 tỷ USD.

Cổ đông sở hữu Jardine Matheson là gia đình Keswick, dòng họ sáng lập nên tập đoàn, nhưng phần lớn các công ty con nằm dưới sự quản lý của các giám đốc điều hành không phải là người nhà, thường là người có quốc tịch ở nước mà công ty đó hoạt động. Cơ sở cho thành công của tập đoàn này là sự hiểu biết sâu sắc về thị trường châu Á, khả năng phát hiện cơ hội mới, cộng với chính sách tham gia hay rút lui khỏi những ngành công nghiệp hay thị trường mà doanh nghiệp không còn lợi thế cạnh tranh.

Dĩ nhiên, vẫn có những mặt trái của mô hình quản lý doanh nghiệp kiểu gia đình. Một những vấn đề đó được gọi là hiệu ứng Carnegie: thế hệ sau có thể có năng lực kém hơn người sáng lập. Một vấn đề khác là tranh chấp giữa những người thừa kế, như trường hợp hai anh em tỷ phú người Ấn Độ của tập đoàn Reliance từng đưa nhau ra tòa. Ở châu Âu cũng đã từng có nhiều trường hợp trong đó gia đình kiểm soát công ty tìm cách làm lợi cho họ và gây thiệt hại cho các cổ đông thiểu số. Nhưng sự hiện diện của một cổ đông gia đình mạnh cũng có nhiều điểm có lợi, ít nhất là sự ổn định và cam kết, cũng như sự theo dõi có trách nhiệm đối với các nhà quản lý của công ty.

Không phải gia đình sáng lập doanh nghiệp nào ở các thị trường mới nổi cũng có thể kéo dài sự thống trị của họ lâu như nhà Wallenberg hay nhà Keswick. Nhưng những gia đình có quan điểm thực tế trong việc quyết định nên gia nhập hay rút lui khỏi lĩnh vực kinh doanh nào, may mắn có được thế hệ con cháu đủ năng lực thừa kế gia sản mà cha ông để lại, và biết trọng dụng nhân tài từ bên ngoài gia đình sẽ là những gia tộc duy trì được vai trò to lớn của họ. Đây cũng sẽ là những gia tộc chứng minh được rằng, mô hình “gia đình trị” là một lựa chọn thay thế cho mô hình quản trị doanh nghiệp phương Tây.