Đổi lãi suất lấy tỷ giá và lạm phát: Hai mặt của một đồng xu!
Lãi suất đang thu về mình quá nhiều “công trạng”, nhưng ở phía bên kia là cái giá phải trả
Lãi suất chống lạm phát, ổn định tỷ giá, loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả, thậm chí góp phần… tái cơ cấu ngân hàng.
Lãi suất đang thu về mình quá nhiều “công trạng”, nhưng ở phía bên kia là cái giá phải trả: sản xuất đình đốn, việc làm ít được tạo thêm và tốc độ tăng CPI vẫn kiên trì kháng cự!
Hết “sóng”, khó làm ăn!
Nếu ở thời điểm này năm ngoái là dịp để bộ phận buôn bán ngoại tệ ở các ngân hàng và giới đầu cơ thị trường tự do tạo “sóng” kiếm lời từ sự thất thường của tỷ giá thì năm nay, việc làm ăn thật khó khăn.
Trưởng phòng kinh doanh ngoại tệ một ngân hàng thương mại Nhà nước cho biết: “Năm nay, ngân hàng tôi khoán chỉ tiêu rất cao, tình hình tỷ giá lại xuống nhanh. Không có “sóng” thì làm ăn sao được!”.
Lời phân trần trên không phải không có lý khi xét về tổng quan trong ngắn hạn, điều hành tỷ giá đang nhuốm một màu hồng. Tại cuộc họp báo ngày 11/1/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tính toán rằng: năm 2012, do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách giảm tổng cầu theo Nghị quyết 11 nên nhập siêu sẽ được kiểm soát ở mức thấp.
Mặt khác, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là tiêu dùng nên đà tăng kim ngạch vẫn được duy trì mặc dù nhu cầu nhập khẩu ở các nước sụt giảm. Chưa kể, các khoản nợ nước ngoài đến hạn vẫn trong tầm kiểm soát nên tỷ giá không phải là vấn đề lớn trong năm 2012. “Nếu loại trừ một số yếu tố bất ổn ngoài dự kiến như vàng, dầu thô, biến động chính trị khu vực thì mức biến động tỷ giá của năm này chỉ trong khoảng 2% - 3%”, Thống đốc nói.
Còn trên thực tế thì sao? Qua theo dõi tỷ giá niêm yết của Vietcombank, mặc dù chưa đến mức “rơi tuột” nhưng trong gần 10 ngày có niêm yết, xu hướng giảm rất rõ nét. Cụ thể, giá mua vào - bán ra (VND/USD) trong các ngày: 7/2: 20.920 - 20.990; 8/2: 20.885 - 21.035; 9/2: 20.860 - 20.930; 10/2: 20.860 - 20.930; 13/2: 20.810 - 20.880; 14/2: 20.820 - 20.890; 15/2: 20.810 - 20.870; 16/2: 20.800 - 20.860; 17/2: 20.800 - 20.860.
Tại sao tỷ giá cặp tiền VND/USD lại có sự diễn biến thuận chiều như trên? Theo giới phân tích, ngoài lý do “vĩ mô” như phân tích của Thống đốc thì một yếu tố mang tính kỹ thuật đến từ việc điều hành lãi suất đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục làm khan tiền đồng sau gần một năm ròng theo đuổi cách làm này, để một công đôi việc: chống lạm phát và ổn định tỷ giá.
Ai cũng biết, khi thực thi thắt chặt tiền tệ, nhà điều hành phải thu hẹp quy mô cung tiền và tăng các loại lãi suất điều hành. Nhờ đó, tốc độ tăng lạm phát đã được hạ nhiệt đáng kể. Nếu như trong quý 3 và 4 của 2011, mỗi tháng CPI tăng khoảng 3% thì đến hết tháng 1/2012, tốc độ tăng của CPI chỉ 1%. Đó là điều đáng ghi nhận, dù so với cùng kỳ, CPI tháng này vẫn tăng tới 17,27% so với cùng kỳ năm 2011.
Đối với tỷ giá, khi tiền đồng khan hiếm, trong điều kiện mọi giao dịch kinh tế bắt buộc dùng VND, đã ép những ai đang nắm giữ ngoại tệ phải bán ra. Tất nhiên, nhà điều hành đã mở sẵn cho họ một cánh cửa “chênh lệch lãi suất” giữa USD và VND.
Với lãi suất tiền gửi VND 14%/năm, trong khi lãi suất USD chỉ vài phần trăm/năm, cộng với mục tiêu điều hành tỷ giá VND giảm giá khoảng 2% - 3% trong năm nay thì nắm giữ VND vẫn có lợi hơn khoảng 8%/năm.
Đánh đổi?
Có thể nói, trong chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước hiện nay, lãi suất VND chính là một yếu tố được coi gần như chiếc chìa khóa để giải quyết hai vấn đề cam go nhất là lạm phát và tỷ giá.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà điều hành đưa ra một loạt động thái quan trọng được lượng hóa thành những con số: tổng mức tăng M2 cả năm 2012 không quá 14% - 16%, tổng tín dụng tăng không quá 15% - 17%, dư nợ đối với những tài sản có độ rủi ro cao (bất động sản, tiêu dùng, chứng khoán) không quá 16%. Với tất cả những yếu tố đó, có thể nói, Ngân hàng Nhà nước đang dần trả lại vị thế giá trị cho VND.
Nhưng, cái giá mà nhà điều hành phải trả ở đây, chính là mong mỏi giảm lãi suất khó trở thành hiện thực, như thể chúng là hai mặt của một đồng xu. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi cách đây một tháng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói thẳng: “Mong muốn giảm lãi suất từ nay đến hết tháng 6/2012 là điều không tưởng!”.
Vậy, nên hiểu như thế nào trước tuyên bố giảm lãi suất của một số ngân hàng thương mại lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank và sắp tới là Agribank? Đầu tiên, giữa tháng 12 năm ngoái, BIDV tuyên bố giảm lãi suất một số gói tín dụng xuống 14,5%/năm - 15,5%/năm cho tài trợ hàng xuất khẩu, nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mới đây, từ 16/2, Vietcombank điều chỉnh lãi suất cho vay thấp nhất là 14,5%/năm đối với khách hàng xuất khẩu thanh toán qua Vietcombank, cho vay “tam nông” và doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức 15%/năm.
Một ngân hàng khác là VietinBank cũng “thập thò” giảm lãi suất với một số đối tượng: sản xuất kinh doanh: 16,5%, tiêu dùng: 17%, xuất khẩu: 15,8%; tam nông: 16%, doanh nghiệp vừa và nhỏ: 16,5%, tín dụng quốc tế: 15,5%. Còn với Agribank, cũng đang thăm dò để giảm lãi suất nhưng chưa công bố chính thức.
Điểm đáng lưu ý là cả ba ông lớn tuyên bố hạ lãi suất nhưng không không định lượng quy mô từng gói tín dụng trong giới hạn hạ lãi suất là bao nhiêu như SHB hay LienVietPostBank đã làm trước đó. Điều này khiến nhiều người đặt vấn đề: việc giảm lãi suất về hình thức chỉ là “xức nước hoa” lên thương hiệu và vì thế, xu hướng giảm lãi suất chưa thể bộc lộ rõ nét.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 1/2012 tăng 1% so với tháng trước và tăng 17,27% so với cùng kỳ năm 2011. Có vẻ như Ngân hàng Nhà nước đã thành công trong việc chấp nhận lãi suất cao để giữ bình yên cho tỷ giá nhưng với lạm phát, kết quả lại không như mong muốn, trong khi đó, ròng rã gần một năm liền, Ngân hàng Nhà nước thực thi thắt chặt tiền tệ, duy trì lãi suất cao ngất ngưởng.
Lãi suất đang cõng trên lưng mình quá nhiều mục tiêu: vừa ổn định tỷ giá, vừa chống lạm phát; thậm chí, còn góp phần phơi lưng những ngân hàng yếu kém để dọn đường cho một phần của câu chuyện tái cơ cấu và ở một phương diện nào đó, là rào cản loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả; trong khi đó, lại muốn chúng ở mức thấp hơn nữa so với thực tế để phục hồi sản xuất là điều không tưởng.
Rất nhiều chuyên gia cho rằng, công cụ lãi suất đang bị lạm dụng. Chấp nhận lãi suất cao để chống lạm phát chỉ có giá trị trong ngắn hạn, còn nếu duy trì quá lâu, câu hỏi về phục hồi sản xuất và tạo thêm việc làm cho hàng triệu lao động sẽ không hoàn toàn dễ giải thích.
Lãi suất đang thu về mình quá nhiều “công trạng”, nhưng ở phía bên kia là cái giá phải trả: sản xuất đình đốn, việc làm ít được tạo thêm và tốc độ tăng CPI vẫn kiên trì kháng cự!
Hết “sóng”, khó làm ăn!
Nếu ở thời điểm này năm ngoái là dịp để bộ phận buôn bán ngoại tệ ở các ngân hàng và giới đầu cơ thị trường tự do tạo “sóng” kiếm lời từ sự thất thường của tỷ giá thì năm nay, việc làm ăn thật khó khăn.
Trưởng phòng kinh doanh ngoại tệ một ngân hàng thương mại Nhà nước cho biết: “Năm nay, ngân hàng tôi khoán chỉ tiêu rất cao, tình hình tỷ giá lại xuống nhanh. Không có “sóng” thì làm ăn sao được!”.
Lời phân trần trên không phải không có lý khi xét về tổng quan trong ngắn hạn, điều hành tỷ giá đang nhuốm một màu hồng. Tại cuộc họp báo ngày 11/1/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tính toán rằng: năm 2012, do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách giảm tổng cầu theo Nghị quyết 11 nên nhập siêu sẽ được kiểm soát ở mức thấp.
Mặt khác, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là tiêu dùng nên đà tăng kim ngạch vẫn được duy trì mặc dù nhu cầu nhập khẩu ở các nước sụt giảm. Chưa kể, các khoản nợ nước ngoài đến hạn vẫn trong tầm kiểm soát nên tỷ giá không phải là vấn đề lớn trong năm 2012. “Nếu loại trừ một số yếu tố bất ổn ngoài dự kiến như vàng, dầu thô, biến động chính trị khu vực thì mức biến động tỷ giá của năm này chỉ trong khoảng 2% - 3%”, Thống đốc nói.
Còn trên thực tế thì sao? Qua theo dõi tỷ giá niêm yết của Vietcombank, mặc dù chưa đến mức “rơi tuột” nhưng trong gần 10 ngày có niêm yết, xu hướng giảm rất rõ nét. Cụ thể, giá mua vào - bán ra (VND/USD) trong các ngày: 7/2: 20.920 - 20.990; 8/2: 20.885 - 21.035; 9/2: 20.860 - 20.930; 10/2: 20.860 - 20.930; 13/2: 20.810 - 20.880; 14/2: 20.820 - 20.890; 15/2: 20.810 - 20.870; 16/2: 20.800 - 20.860; 17/2: 20.800 - 20.860.
Tại sao tỷ giá cặp tiền VND/USD lại có sự diễn biến thuận chiều như trên? Theo giới phân tích, ngoài lý do “vĩ mô” như phân tích của Thống đốc thì một yếu tố mang tính kỹ thuật đến từ việc điều hành lãi suất đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục làm khan tiền đồng sau gần một năm ròng theo đuổi cách làm này, để một công đôi việc: chống lạm phát và ổn định tỷ giá.
Ai cũng biết, khi thực thi thắt chặt tiền tệ, nhà điều hành phải thu hẹp quy mô cung tiền và tăng các loại lãi suất điều hành. Nhờ đó, tốc độ tăng lạm phát đã được hạ nhiệt đáng kể. Nếu như trong quý 3 và 4 của 2011, mỗi tháng CPI tăng khoảng 3% thì đến hết tháng 1/2012, tốc độ tăng của CPI chỉ 1%. Đó là điều đáng ghi nhận, dù so với cùng kỳ, CPI tháng này vẫn tăng tới 17,27% so với cùng kỳ năm 2011.
Đối với tỷ giá, khi tiền đồng khan hiếm, trong điều kiện mọi giao dịch kinh tế bắt buộc dùng VND, đã ép những ai đang nắm giữ ngoại tệ phải bán ra. Tất nhiên, nhà điều hành đã mở sẵn cho họ một cánh cửa “chênh lệch lãi suất” giữa USD và VND.
Với lãi suất tiền gửi VND 14%/năm, trong khi lãi suất USD chỉ vài phần trăm/năm, cộng với mục tiêu điều hành tỷ giá VND giảm giá khoảng 2% - 3% trong năm nay thì nắm giữ VND vẫn có lợi hơn khoảng 8%/năm.
Đánh đổi?
Có thể nói, trong chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước hiện nay, lãi suất VND chính là một yếu tố được coi gần như chiếc chìa khóa để giải quyết hai vấn đề cam go nhất là lạm phát và tỷ giá.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà điều hành đưa ra một loạt động thái quan trọng được lượng hóa thành những con số: tổng mức tăng M2 cả năm 2012 không quá 14% - 16%, tổng tín dụng tăng không quá 15% - 17%, dư nợ đối với những tài sản có độ rủi ro cao (bất động sản, tiêu dùng, chứng khoán) không quá 16%. Với tất cả những yếu tố đó, có thể nói, Ngân hàng Nhà nước đang dần trả lại vị thế giá trị cho VND.
Nhưng, cái giá mà nhà điều hành phải trả ở đây, chính là mong mỏi giảm lãi suất khó trở thành hiện thực, như thể chúng là hai mặt của một đồng xu. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi cách đây một tháng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói thẳng: “Mong muốn giảm lãi suất từ nay đến hết tháng 6/2012 là điều không tưởng!”.
Vậy, nên hiểu như thế nào trước tuyên bố giảm lãi suất của một số ngân hàng thương mại lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank và sắp tới là Agribank? Đầu tiên, giữa tháng 12 năm ngoái, BIDV tuyên bố giảm lãi suất một số gói tín dụng xuống 14,5%/năm - 15,5%/năm cho tài trợ hàng xuất khẩu, nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mới đây, từ 16/2, Vietcombank điều chỉnh lãi suất cho vay thấp nhất là 14,5%/năm đối với khách hàng xuất khẩu thanh toán qua Vietcombank, cho vay “tam nông” và doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức 15%/năm.
Một ngân hàng khác là VietinBank cũng “thập thò” giảm lãi suất với một số đối tượng: sản xuất kinh doanh: 16,5%, tiêu dùng: 17%, xuất khẩu: 15,8%; tam nông: 16%, doanh nghiệp vừa và nhỏ: 16,5%, tín dụng quốc tế: 15,5%. Còn với Agribank, cũng đang thăm dò để giảm lãi suất nhưng chưa công bố chính thức.
Điểm đáng lưu ý là cả ba ông lớn tuyên bố hạ lãi suất nhưng không không định lượng quy mô từng gói tín dụng trong giới hạn hạ lãi suất là bao nhiêu như SHB hay LienVietPostBank đã làm trước đó. Điều này khiến nhiều người đặt vấn đề: việc giảm lãi suất về hình thức chỉ là “xức nước hoa” lên thương hiệu và vì thế, xu hướng giảm lãi suất chưa thể bộc lộ rõ nét.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 1/2012 tăng 1% so với tháng trước và tăng 17,27% so với cùng kỳ năm 2011. Có vẻ như Ngân hàng Nhà nước đã thành công trong việc chấp nhận lãi suất cao để giữ bình yên cho tỷ giá nhưng với lạm phát, kết quả lại không như mong muốn, trong khi đó, ròng rã gần một năm liền, Ngân hàng Nhà nước thực thi thắt chặt tiền tệ, duy trì lãi suất cao ngất ngưởng.
Lãi suất đang cõng trên lưng mình quá nhiều mục tiêu: vừa ổn định tỷ giá, vừa chống lạm phát; thậm chí, còn góp phần phơi lưng những ngân hàng yếu kém để dọn đường cho một phần của câu chuyện tái cơ cấu và ở một phương diện nào đó, là rào cản loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả; trong khi đó, lại muốn chúng ở mức thấp hơn nữa so với thực tế để phục hồi sản xuất là điều không tưởng.
Rất nhiều chuyên gia cho rằng, công cụ lãi suất đang bị lạm dụng. Chấp nhận lãi suất cao để chống lạm phát chỉ có giá trị trong ngắn hạn, còn nếu duy trì quá lâu, câu hỏi về phục hồi sản xuất và tạo thêm việc làm cho hàng triệu lao động sẽ không hoàn toàn dễ giải thích.