Đừng lạm dụng vốn cổ đông
Mùa đại hội cổ đông vừa qua chứng kiến các công ty cổ phần "ào ạt" huy động vốn cổ đông để tăng vốn cho nhiều mục đích khác nhau
Mùa đại hội cổ đông vừa qua chứng kiến các công ty cổ phần "ào ạt" huy động vốn cổ đông để tăng vốn cho nhiều mục đích khác nhau.
Ngoài mục đích tăng vốn thực hiện các dự án, không loại trừ nhiều công ty có mục đích chính là đáp ứng hạn mức 80 tỉ đồng của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM.
Thậm chí, có những lãnh đạo công ty tăng vốn chỉ để chứng tỏ mình hơn công ty đối thủ, mình đứng thứ nhất.
Tăng vốn cổ phần, chi phí vốn tăng cao
Điều này là hiển nhiên vì chi phí vốn cổ phần bao giờ cũng cao hơn chi phí lãi vay, nên việc tăng tỉ trọng vốn cổ phần kéo theo chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp tăng lên.
Chi phí vốn của doanh nghiệp được xác định là chi phí vốn bình quân theo các nguồn huy động vốn. Chi phí vốn bình quân được tính bằng công thức: Chi phí vốn bình quân WACC = Chi phí nợ x tỉ lệ nợ + chi phí vốn cổ phần x tỉ lệ vốn cổ phần.
Một công ty có cơ cấu vốn hợp lý là một công ty điều chỉnh được cơ cấu nợ và cơ cấu vốn cổ phần sao cho WACC là nhỏ nhất trên mức sinh lợi mà nguồn vốn đó mang lại. Thống kê các doanh nghiệp trên sàn Tp.HCM thì trong năm 2006, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp đều có sự thay đổi rõ rệt so với năm 2005: Hầu hết các doanh nghiệp đều gia tăng cơ cấu vốn cổ phần, giảm tỉ trọng vốn nợ. Hệ quả tất yếu là chi phí vốn bình quân (WACC) tăng lên, thông thường từ 1-2%, cá biệt có doanh nghiệp việc thay đổi cơ cấu vốn làm WACC tăng 3-4%.
Như vậy, tính trung bình cho năm 2006, WACC của các doanh nghiệp dao động trong khoảng 14-17%. Đây không phải một mức chi phí cao, nhưng vấn đề là ở chỗ những kế hoạch tăng vốn luôn đi liền với những dự án mà công ty sẽ thực hiện hoặc dùng để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Liệu các dự án mà các cổ đông thông qua có đạt được mức sinh lợi trên 18%/năm trên mức chi phí đã bỏ ra và thời gian để có được hiệu quả đó là bao lâu?
Tiền có "đẻ" ra tiền?
Khi thực hiện đầu tư vào bất kỳ doanh nghiệp nào, cổ đông đều hy vọng gia tăng giá trị khoản đầu tư của mình. Chi phí vốn của sau huy động của doanh nghiệp càng cao thì kỳ vọng của cổ đông càng lớn. Với tốc độ gia tăng vốn như hiện nay, thì tỉ suất sinh lợi của vốn chủ (= thu nhập cho cổ đông thường/giá trị thị trường của vốn chủ) sẽ giảm xuống.
Trong khi đó, nhà đầu tư lại không mấy quan tâm đến cách thức và lộ trình giải ngân lượng thặng dư vốn khổng lồ của doanh nghiệp sau phát hành. Vậy thực chất số tiền đó đi đâu?
Theo nguyên tắc lượng vốn huy động được sau phát hành sẽ được đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng phương án đề ra sau phát hành. Nhưng thực tế là các dự án đề ra thường là các dự án dài hạn và việc giải ngân vốn sẽ được thực hiện trong thời gian dài, nên lượng tiền nhàn rỗi là rất lớn. Trong khi đó, việc mở rộng sản xuất lại phải gắn liền với việc tìm đầu ra cho sản phẩm và sức tiêu thụ của thị trường.
Xem xét hoạt động đầu tư tài chính của các doanh nghiệp trong thời gian gần đây thấy hầu hết các công ty đều gia tăng đầu tư tài chính. Không thể phủ nhận các tác động tích cực của hoạt động đầu tư tài chính đối với doanh nghiệp, nhưng đây cũng là một điểm thể hiện tính rủi ro khi không có một đội ngũ đầu tư chuyên nghiệp và sự đổ vỡ tài chính có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi thị trường sụt giảm.
Lợi nhuận tài chính thu về từ hoạt động đầu tư hầu hết là rất nhỏ, không đáng kể so với chi phí tài chính (chủ yếu là chi phí lãi vay). Tỉ suất lợi nhuận trên khoản tiền đầu tư là rất thấp, đặc biệt là trong thời điểm thị trường ảm đạm như hiện nay. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán và tiền lại chảy ngược lại chứ không phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một sự lãng phí vốn một cách trầm trọng.
Hậu quả là quyền lợi của chính các cổ đông bị ảnh hưởng khi tiền của mình bị sử dụng không đúng mục đích. Vậy huy động thêm vốn là tốt hay không tốt trong giai đoạn hiện nay và huy động vốn để làm gì, là bài toán mà cổ đông phải tỉnh táo và sáng suốt để tính toán cho đúng.
Ngoài mục đích tăng vốn thực hiện các dự án, không loại trừ nhiều công ty có mục đích chính là đáp ứng hạn mức 80 tỉ đồng của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM.
Thậm chí, có những lãnh đạo công ty tăng vốn chỉ để chứng tỏ mình hơn công ty đối thủ, mình đứng thứ nhất.
Tăng vốn cổ phần, chi phí vốn tăng cao
Điều này là hiển nhiên vì chi phí vốn cổ phần bao giờ cũng cao hơn chi phí lãi vay, nên việc tăng tỉ trọng vốn cổ phần kéo theo chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp tăng lên.
Chi phí vốn của doanh nghiệp được xác định là chi phí vốn bình quân theo các nguồn huy động vốn. Chi phí vốn bình quân được tính bằng công thức: Chi phí vốn bình quân WACC = Chi phí nợ x tỉ lệ nợ + chi phí vốn cổ phần x tỉ lệ vốn cổ phần.
Một công ty có cơ cấu vốn hợp lý là một công ty điều chỉnh được cơ cấu nợ và cơ cấu vốn cổ phần sao cho WACC là nhỏ nhất trên mức sinh lợi mà nguồn vốn đó mang lại. Thống kê các doanh nghiệp trên sàn Tp.HCM thì trong năm 2006, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp đều có sự thay đổi rõ rệt so với năm 2005: Hầu hết các doanh nghiệp đều gia tăng cơ cấu vốn cổ phần, giảm tỉ trọng vốn nợ. Hệ quả tất yếu là chi phí vốn bình quân (WACC) tăng lên, thông thường từ 1-2%, cá biệt có doanh nghiệp việc thay đổi cơ cấu vốn làm WACC tăng 3-4%.
Như vậy, tính trung bình cho năm 2006, WACC của các doanh nghiệp dao động trong khoảng 14-17%. Đây không phải một mức chi phí cao, nhưng vấn đề là ở chỗ những kế hoạch tăng vốn luôn đi liền với những dự án mà công ty sẽ thực hiện hoặc dùng để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Liệu các dự án mà các cổ đông thông qua có đạt được mức sinh lợi trên 18%/năm trên mức chi phí đã bỏ ra và thời gian để có được hiệu quả đó là bao lâu?
Tiền có "đẻ" ra tiền?
Khi thực hiện đầu tư vào bất kỳ doanh nghiệp nào, cổ đông đều hy vọng gia tăng giá trị khoản đầu tư của mình. Chi phí vốn của sau huy động của doanh nghiệp càng cao thì kỳ vọng của cổ đông càng lớn. Với tốc độ gia tăng vốn như hiện nay, thì tỉ suất sinh lợi của vốn chủ (= thu nhập cho cổ đông thường/giá trị thị trường của vốn chủ) sẽ giảm xuống.
Trong khi đó, nhà đầu tư lại không mấy quan tâm đến cách thức và lộ trình giải ngân lượng thặng dư vốn khổng lồ của doanh nghiệp sau phát hành. Vậy thực chất số tiền đó đi đâu?
Theo nguyên tắc lượng vốn huy động được sau phát hành sẽ được đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng phương án đề ra sau phát hành. Nhưng thực tế là các dự án đề ra thường là các dự án dài hạn và việc giải ngân vốn sẽ được thực hiện trong thời gian dài, nên lượng tiền nhàn rỗi là rất lớn. Trong khi đó, việc mở rộng sản xuất lại phải gắn liền với việc tìm đầu ra cho sản phẩm và sức tiêu thụ của thị trường.
Xem xét hoạt động đầu tư tài chính của các doanh nghiệp trong thời gian gần đây thấy hầu hết các công ty đều gia tăng đầu tư tài chính. Không thể phủ nhận các tác động tích cực của hoạt động đầu tư tài chính đối với doanh nghiệp, nhưng đây cũng là một điểm thể hiện tính rủi ro khi không có một đội ngũ đầu tư chuyên nghiệp và sự đổ vỡ tài chính có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi thị trường sụt giảm.
Lợi nhuận tài chính thu về từ hoạt động đầu tư hầu hết là rất nhỏ, không đáng kể so với chi phí tài chính (chủ yếu là chi phí lãi vay). Tỉ suất lợi nhuận trên khoản tiền đầu tư là rất thấp, đặc biệt là trong thời điểm thị trường ảm đạm như hiện nay. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán và tiền lại chảy ngược lại chứ không phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một sự lãng phí vốn một cách trầm trọng.
Hậu quả là quyền lợi của chính các cổ đông bị ảnh hưởng khi tiền của mình bị sử dụng không đúng mục đích. Vậy huy động thêm vốn là tốt hay không tốt trong giai đoạn hiện nay và huy động vốn để làm gì, là bài toán mà cổ đông phải tỉnh táo và sáng suốt để tính toán cho đúng.