Gia đình và sự nghiệp: Phụ nữ Nhật khó có cả hai
Một rào cản lớn đối với sự tiến bộ của phụ nữ Nhật Bản chính là văn hóa doanh nghiệp nổi tiếng khắt khe ở nước này
Yukako Kurose, một phụ nữ Nhật, bắt đầu đi làm vào năm 1986, một năm sau khi nước này thông qua Đạo luật Cơ hội làm việc bình đẳng đầu tiên.
Cũng giống như những phụ nữ trẻ có tham vọng nghề nghiệp khác, cô muốn đạo luật này sẽ mở ra những cánh cửa cho mình. Tuy nhiên, sự nghiệp đầy hứa hẹn của cô tại một công ty thương mại đã chấm dứt 15 năm trước đây khi cô sinh con.
Những cơ hội thăng tiến đã không đến với Kurose sau khi cô bắt đầu rời văn phòng trước 6 giờ rưỡi mỗi chiều để đón con gái từ nhà trẻ. Sau đó, cô bị chuyển sang làm công việc văn thư buồn tẻ. Cuối cùng, cô quyết định thôi việc. “Những tập quán lao động của Nhật Bản khiến phụ nữ không thể có cùng lúc cả gia đình và sự nghiệp,” Kurose nói.
Từ khi Đạo luật Cơ hội làm việc bình đẳng được thông qua vào năm 1985, hình ảnh người phụ nữ Nhật Bản trong các nhà máy, trên các công trường xây dựng và trên cả ghế lái taxi đã trở nên khá phổ biến. Tuy nhiên, họ không có nhiều thành công trong việc vươn tới ghế lãnh đạo, vị trí vẫn tiếp tục chỉ để dành cho cánh đàn ông.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thuộc Liên hiệp quốc, vào năm 1958, phụ nữ chỉ chiếm vỏn vẹn 6,6% trong toàn bộ các vị trí quản lý tại các công ty và các cơ quan nhà nước ở Nhật Bản. Tới năm 2005, con số này tăng lên 10,1%, mặc dù 27 triệu phụ nữ có việc làm của Nhật Bản chiếm tới gần một nửa lực lượng lao động của nước này. Ngược lại, ở Mỹ, vào năm 2005, phụ nữ nắm giữ tới 42,5% các vị trí quản lý.
Các chuyên gia về các vấn đề của phụ nữ cho rằng, định kiến đối với phụ nữ chỉ là một phần trong vấn đề của Nhật Bản. Một rào cản thậm chí còn lớn hơn đối với sự tiến bộ của phụ nữ chính là văn hóa doanh nghiệp nổi tiếng khắt khe ở nước này, đặc biệt là kỳ vọng người lao động phải làm việc từ sáng đến nửa đêm.
Các thống kê của Chính phủ Nhật cho thấy, nhiều phụ nữ từ bỏ công việc có triển vọng được lên vị trí quản lý khi họ trên dưới 30 tuổi và bắt đầu sinh con. Trong bối cảnh tỷ lệ sinh của Nhật Bản giảm nhanh chóng và dân số nước này lão hóa, người ta đang lo ngại rằng, sẽ là sai lầm nếu Nhật Bản để phí một tiềm năng lớn như vậy.
“Nếu bị yêu cầu phải làm việc 15 tiếng mỗi ngày, phần lớn phụ nữ sẽ bỏ việc,” Kuniko Inoguchi, nguyên bộ trưởng nội các phụ trách bình đẳng giới của Nhật Bản nói. “Trong khi đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động, Nhật Bản lại đánh mất đi một nửa nguồn lực trí tuệ của mình.”
Thậm chí cả trong những vụ phân biệt đối xử rõ rành rành, nạn nhân cũng rất hiếm khi đâm đơn kiện vì văn hóa của người Nhật là không thích kiện tụng.
Một vấn đề lớn khác là luật cơ hội bình đẳng về bản chất không có hiệu lực. Mặc dù đã được sửa đổi hai lần, luật này vẫn chưa có một chế tài nào cho các công ty tiếp tục phân biệt đối xử với phụ nữ. Điều đáng sợ nhất mà Bộ Lao động Nhật Bản có thể là chỉ là đe dọa công bố tên của các công ty vi phạm.Tuy nhiên, từ trước đến nay, Bộ này cũng chưa làm như vậy bao giờ.
Do vậy, theo chỉ số bình đẳng giới của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), một chỉ số đánh giá sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế và chính trị của quốc gia, trong số các nước giàu của thế giới, Nhật Bản là quốc gia bất bình đẳng về giới nhất. Trong tổng số 75 quốc gia được điều tra năm 2006, Nhật Bản xếp ở vị trí thứ 42, thấp xa so với các nước đang phát triển khác như Mỹ, xếp ở vị trí thứ 12, và Nauy, ở vị trí đầu bảng.
“Thật không thỏa đáng. Thậm chí ở Pakistan, nơi phụ nữ phải che mặt, họ vẫn có một nữ thủ tướng,” Kumiko Morizane, Phó vụ trưởng Tuyển dụng bình đẳng trong bộ Lao động Nhật Bản nói.
Sự chuyển biến diễn ra quá chậm chạp trong vấn đề này đã phản ánh quan điểm xã hội ăn sâu bám rễ về vai trò của phụ nữ. Takoko Ariishi, 36 tuổi, một kỹ sư được đào tạo đã phải trải qua sự phân biệt đối xử nam nữ ngay từ khi còn bé.
Cô là con gái độc nhất của chủ tịch của một công ty gia đình có tên Daiya Seiki, một nhà cung cấp của hãng Nissan. Ban đầu, người cha vốn thất vọng về việc chỉ có một cô con gái, đã cắt tóc cho cô như con trai và không cho cô được chơi với búp bê. 10 năm trước, khi Takoko sinh con trai, cha cô lập tức sa thải cô khỏi công ty và chỉ định đứa cháu trai mới sinh làm người kế nhiệm ông.
Tuy nhiên, Ariishi đã tiếp quản ghế chủ tịch 3 năm trước đây, khi cha cô qua đời. Cô nói, cô là người phụ nữ duy nhất trong số khoảng 160 người đứng đầu của các nhà cung cấp của hãng Nissan. Lần đầu tiên tham dự cuộc họp tổ chức hai năm một lần của nhóm các nhà cung cấp này, cô bị yêu cầu đợi trong một căn phòng với các thư ký. “Tôi luôn phải chứng minh rằng, một phụ nữ cũng có thể làm chủ tịch công ty,” Ariishi nói.
Cô cho biết, cô về nhà vào lúc khoảng 7 giờ tối để cho con đi ngủ, sau đó, lại quay trở lại làm việc. Gánh nặng làm việc trong khoảng thời gian dài mỗi ngày như vậy đã khiến phần lớn phụ nữ có việc làm phải bỏ việc trước khi họ có thể đạt tới vị trí lãnh đạo. Midori Ito, chủ tịch của Trung tâm Hành động vì phụ nữ, một tổ chức quốc gia cung cấp các hỗ trợ pháp lý cho các lao động nữ, cho biết, hơn một nửa số phụ nữ có sự nghiệp riêng phải từ bỏ công việc khi mới bước qua tuổi 30, số còn lại lựa chọn con đường sống độc thân.
Một trong số những người như vậy là Miiko Tsuda, 38 tuổi. Cô cho biết, cô phải làm việc tới 10 hoặc 11 giờ đêm hàng ngày và do đó, không có thời gian để nghĩ tới chuyện kết hôn.
Ngoài ra, Tsuda cũng cho biết thường xuyên cảm thấy bị phân biệt đối xử. Mức lương của cô thấp hơn so với của các đồng nghiệp nam từ 10% đến 20%. Những đồng nghiệp nam trẻ tuổi hơn vẫn yêu cầu cô và những phụ nữ khác bấm nút thang máy và pha trà cho họ. Cô nói, chỉ có 5 người trong số khoảng 300 vị trí quản lý của công ty cô làm việc là phụ nữ. Tuy nhiên, con số này đã tăng so với thời điểm khi cô gia nhập công ty 17 năm trước đây, khi đó, con số này là con số 0 tròn trĩnh.
Tuy nhiên, những người ủng hộ quyền của phụ nữ cho rằng, thực tế về việc dân số Nhật Bản đang có xu hướng giảm đang dần thúc đẩy sự chuyển biến. Họ cho rằng, nhu cầu tìm kiếm người tài đã buộc một số công ty nỗ lực hơn trong việc thuê phụ nữ vào vị trí quản lý. Một số nhà phân tích tính toán, trong những năm gần đây, đã có khoảng 1/4 số người có sự nghiệp được tuyển dụng là phụ nữ.
Một số công ty đang có những bước tiến trong việc đưa nhiều phụ nữ hơn lên vị trí quản lý. Sau khi nghỉ việc ở công ty thương mại vào năm 2002, Kurose, nhân vật ở đầu câu chuyện này, đã trở thành người đứng đầu bộ phận phát triển đa dạng của Teijin, một hãng sản xuất vải polyester ở Osaka. Cô tổ chức các lớp học để đào tạo phụ nữ trong vai trò quản lý, đặt ra các mục tiêu tuyển dụng và giúp đỡ các bà mẹ sau khi nghỉ sinh được trở lại làm việc trong công ty.
Hiện mới chỉ có khoảng 50 người trong số khoảng 2.000 vị trí quản lý của công ty này là phụ nữ. Tuy nhiên, con số này đã tăng gấp 3 lần kể từ khi Kurose gia nhập công ty.
Những người ủng hộ quyền lợi của phụ nữ hiện đã bắt đầu lập luận rằng Nhật Bản cần phải có thêm nhiều hơn nữa những nỗ lực như vậy, không chỉ cho lợi ích của doanh nghiệp, mà còn cho sự sống còn của các doanh nghiệp.
Họ đề cập đến những nghiên cứu cho thấy những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ có việc làm cao hơn thường có tỷ lệ sinh cao hơn. Họ cho rằng, lý do ở đây là phụ nữ có sự nghiệp ở những nước như vậy có con sớm, trong khi những phụ nữ Nhật Bản thôi việc để sinh con thường chỉ sinh con khi đã ở độ tuổi 30.
Một chuyên gia nói: “Tỷ lệ sinh ở Nhật Bản đang giảm xuống vì phụ nữ không được bình đẳng. Tình trạng thiếu lao động đang dần thúc đẩy sự thay đổi trong quan niệm.”
(Theo NYT)
Cũng giống như những phụ nữ trẻ có tham vọng nghề nghiệp khác, cô muốn đạo luật này sẽ mở ra những cánh cửa cho mình. Tuy nhiên, sự nghiệp đầy hứa hẹn của cô tại một công ty thương mại đã chấm dứt 15 năm trước đây khi cô sinh con.
Những cơ hội thăng tiến đã không đến với Kurose sau khi cô bắt đầu rời văn phòng trước 6 giờ rưỡi mỗi chiều để đón con gái từ nhà trẻ. Sau đó, cô bị chuyển sang làm công việc văn thư buồn tẻ. Cuối cùng, cô quyết định thôi việc. “Những tập quán lao động của Nhật Bản khiến phụ nữ không thể có cùng lúc cả gia đình và sự nghiệp,” Kurose nói.
Từ khi Đạo luật Cơ hội làm việc bình đẳng được thông qua vào năm 1985, hình ảnh người phụ nữ Nhật Bản trong các nhà máy, trên các công trường xây dựng và trên cả ghế lái taxi đã trở nên khá phổ biến. Tuy nhiên, họ không có nhiều thành công trong việc vươn tới ghế lãnh đạo, vị trí vẫn tiếp tục chỉ để dành cho cánh đàn ông.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thuộc Liên hiệp quốc, vào năm 1958, phụ nữ chỉ chiếm vỏn vẹn 6,6% trong toàn bộ các vị trí quản lý tại các công ty và các cơ quan nhà nước ở Nhật Bản. Tới năm 2005, con số này tăng lên 10,1%, mặc dù 27 triệu phụ nữ có việc làm của Nhật Bản chiếm tới gần một nửa lực lượng lao động của nước này. Ngược lại, ở Mỹ, vào năm 2005, phụ nữ nắm giữ tới 42,5% các vị trí quản lý.
Các chuyên gia về các vấn đề của phụ nữ cho rằng, định kiến đối với phụ nữ chỉ là một phần trong vấn đề của Nhật Bản. Một rào cản thậm chí còn lớn hơn đối với sự tiến bộ của phụ nữ chính là văn hóa doanh nghiệp nổi tiếng khắt khe ở nước này, đặc biệt là kỳ vọng người lao động phải làm việc từ sáng đến nửa đêm.
Các thống kê của Chính phủ Nhật cho thấy, nhiều phụ nữ từ bỏ công việc có triển vọng được lên vị trí quản lý khi họ trên dưới 30 tuổi và bắt đầu sinh con. Trong bối cảnh tỷ lệ sinh của Nhật Bản giảm nhanh chóng và dân số nước này lão hóa, người ta đang lo ngại rằng, sẽ là sai lầm nếu Nhật Bản để phí một tiềm năng lớn như vậy.
“Nếu bị yêu cầu phải làm việc 15 tiếng mỗi ngày, phần lớn phụ nữ sẽ bỏ việc,” Kuniko Inoguchi, nguyên bộ trưởng nội các phụ trách bình đẳng giới của Nhật Bản nói. “Trong khi đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động, Nhật Bản lại đánh mất đi một nửa nguồn lực trí tuệ của mình.”
Thậm chí cả trong những vụ phân biệt đối xử rõ rành rành, nạn nhân cũng rất hiếm khi đâm đơn kiện vì văn hóa của người Nhật là không thích kiện tụng.
Một vấn đề lớn khác là luật cơ hội bình đẳng về bản chất không có hiệu lực. Mặc dù đã được sửa đổi hai lần, luật này vẫn chưa có một chế tài nào cho các công ty tiếp tục phân biệt đối xử với phụ nữ. Điều đáng sợ nhất mà Bộ Lao động Nhật Bản có thể là chỉ là đe dọa công bố tên của các công ty vi phạm.Tuy nhiên, từ trước đến nay, Bộ này cũng chưa làm như vậy bao giờ.
Do vậy, theo chỉ số bình đẳng giới của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), một chỉ số đánh giá sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế và chính trị của quốc gia, trong số các nước giàu của thế giới, Nhật Bản là quốc gia bất bình đẳng về giới nhất. Trong tổng số 75 quốc gia được điều tra năm 2006, Nhật Bản xếp ở vị trí thứ 42, thấp xa so với các nước đang phát triển khác như Mỹ, xếp ở vị trí thứ 12, và Nauy, ở vị trí đầu bảng.
“Thật không thỏa đáng. Thậm chí ở Pakistan, nơi phụ nữ phải che mặt, họ vẫn có một nữ thủ tướng,” Kumiko Morizane, Phó vụ trưởng Tuyển dụng bình đẳng trong bộ Lao động Nhật Bản nói.
Sự chuyển biến diễn ra quá chậm chạp trong vấn đề này đã phản ánh quan điểm xã hội ăn sâu bám rễ về vai trò của phụ nữ. Takoko Ariishi, 36 tuổi, một kỹ sư được đào tạo đã phải trải qua sự phân biệt đối xử nam nữ ngay từ khi còn bé.
Cô là con gái độc nhất của chủ tịch của một công ty gia đình có tên Daiya Seiki, một nhà cung cấp của hãng Nissan. Ban đầu, người cha vốn thất vọng về việc chỉ có một cô con gái, đã cắt tóc cho cô như con trai và không cho cô được chơi với búp bê. 10 năm trước, khi Takoko sinh con trai, cha cô lập tức sa thải cô khỏi công ty và chỉ định đứa cháu trai mới sinh làm người kế nhiệm ông.
Tuy nhiên, Ariishi đã tiếp quản ghế chủ tịch 3 năm trước đây, khi cha cô qua đời. Cô nói, cô là người phụ nữ duy nhất trong số khoảng 160 người đứng đầu của các nhà cung cấp của hãng Nissan. Lần đầu tiên tham dự cuộc họp tổ chức hai năm một lần của nhóm các nhà cung cấp này, cô bị yêu cầu đợi trong một căn phòng với các thư ký. “Tôi luôn phải chứng minh rằng, một phụ nữ cũng có thể làm chủ tịch công ty,” Ariishi nói.
Cô cho biết, cô về nhà vào lúc khoảng 7 giờ tối để cho con đi ngủ, sau đó, lại quay trở lại làm việc. Gánh nặng làm việc trong khoảng thời gian dài mỗi ngày như vậy đã khiến phần lớn phụ nữ có việc làm phải bỏ việc trước khi họ có thể đạt tới vị trí lãnh đạo. Midori Ito, chủ tịch của Trung tâm Hành động vì phụ nữ, một tổ chức quốc gia cung cấp các hỗ trợ pháp lý cho các lao động nữ, cho biết, hơn một nửa số phụ nữ có sự nghiệp riêng phải từ bỏ công việc khi mới bước qua tuổi 30, số còn lại lựa chọn con đường sống độc thân.
Một trong số những người như vậy là Miiko Tsuda, 38 tuổi. Cô cho biết, cô phải làm việc tới 10 hoặc 11 giờ đêm hàng ngày và do đó, không có thời gian để nghĩ tới chuyện kết hôn.
Ngoài ra, Tsuda cũng cho biết thường xuyên cảm thấy bị phân biệt đối xử. Mức lương của cô thấp hơn so với của các đồng nghiệp nam từ 10% đến 20%. Những đồng nghiệp nam trẻ tuổi hơn vẫn yêu cầu cô và những phụ nữ khác bấm nút thang máy và pha trà cho họ. Cô nói, chỉ có 5 người trong số khoảng 300 vị trí quản lý của công ty cô làm việc là phụ nữ. Tuy nhiên, con số này đã tăng so với thời điểm khi cô gia nhập công ty 17 năm trước đây, khi đó, con số này là con số 0 tròn trĩnh.
Tuy nhiên, những người ủng hộ quyền của phụ nữ cho rằng, thực tế về việc dân số Nhật Bản đang có xu hướng giảm đang dần thúc đẩy sự chuyển biến. Họ cho rằng, nhu cầu tìm kiếm người tài đã buộc một số công ty nỗ lực hơn trong việc thuê phụ nữ vào vị trí quản lý. Một số nhà phân tích tính toán, trong những năm gần đây, đã có khoảng 1/4 số người có sự nghiệp được tuyển dụng là phụ nữ.
Một số công ty đang có những bước tiến trong việc đưa nhiều phụ nữ hơn lên vị trí quản lý. Sau khi nghỉ việc ở công ty thương mại vào năm 2002, Kurose, nhân vật ở đầu câu chuyện này, đã trở thành người đứng đầu bộ phận phát triển đa dạng của Teijin, một hãng sản xuất vải polyester ở Osaka. Cô tổ chức các lớp học để đào tạo phụ nữ trong vai trò quản lý, đặt ra các mục tiêu tuyển dụng và giúp đỡ các bà mẹ sau khi nghỉ sinh được trở lại làm việc trong công ty.
Hiện mới chỉ có khoảng 50 người trong số khoảng 2.000 vị trí quản lý của công ty này là phụ nữ. Tuy nhiên, con số này đã tăng gấp 3 lần kể từ khi Kurose gia nhập công ty.
Những người ủng hộ quyền lợi của phụ nữ hiện đã bắt đầu lập luận rằng Nhật Bản cần phải có thêm nhiều hơn nữa những nỗ lực như vậy, không chỉ cho lợi ích của doanh nghiệp, mà còn cho sự sống còn của các doanh nghiệp.
Họ đề cập đến những nghiên cứu cho thấy những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ có việc làm cao hơn thường có tỷ lệ sinh cao hơn. Họ cho rằng, lý do ở đây là phụ nữ có sự nghiệp ở những nước như vậy có con sớm, trong khi những phụ nữ Nhật Bản thôi việc để sinh con thường chỉ sinh con khi đã ở độ tuổi 30.
Một chuyên gia nói: “Tỷ lệ sinh ở Nhật Bản đang giảm xuống vì phụ nữ không được bình đẳng. Tình trạng thiếu lao động đang dần thúc đẩy sự thay đổi trong quan niệm.”
(Theo NYT)