
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Hai, 20/10/2025
Minh Đức
04/04/2008, 01:41
Sự bình ổn theo trần thỏa thuận chỉ là bề nổi, còn thực tế cầu vốn của các ngân hàng vẫn căng thẳng
Một ngày sau thỏa thuận giảm lãi suất, thị trường liên ngân hàng lại có dấu hiệu tái diễn biến động như từng xẩy ra cuối tháng 2 vừa qua.
Đến cuối ngày 2/4, các ngân hàng đã lần lượt giảm lãi suất huy động VND, tôn trọng trần thỏa thuận 11%/năm. Lãi suất trên thị trường chính thức bình ổn.
Nhưng, không phải đợi lâu, ngay trong ngày 2/4, thị trường liên ngân hàng đã có biến động, lãi suất qua đêm VND vọt lên tới 12%/năm. Một đột biến bởi chưa đầy một tuần trước đó mốc phổ biến chỉ từ 5 – 7%; kỳ hạn 1 tuần cũng chỉ từ 7 -7,5%/năm, kỳ hạn 1 tháng cao nhất cũng chỉ 10%/năm.
Phản ứng tức thời này gây bất ngờ với giới quan sát, bởi trước đó, trong cuộc họp bàn tìm trần lãi suất thỏa thuận, chính đại diện các ngân hàng đã cùng chủ động lùi về mốc 11% thay vì 12% như công điện của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Liệu đó có phải là phản ứng chỉ mang tính thời điểm trong ngày thực hiện giảm lãi suất theo thỏa thuận? Câu trả lời có ngay ở ngày nối tiếp, ngày 3/4: lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lại vọt lên mốc 15%/năm. Tuy còn xa mốc 40%/năm từng treo trong tuần cuối của tháng 2 trước đó, nhưng là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Diễn biến trên đang đi cùng với một nhận định: lãi suất trên thị trường ngân hàng đang ở trạng thái “xanh vỏ, đỏ lòng”. Sự bình ổn theo trần thỏa thuận chỉ là bề nổi, còn thực tế cầu vốn của các ngân hàng vẫn căng thẳng.
Diễn biến trên cũng cho thấy lãi suất đang trong thế của một quả bóng, nhấn bình ổn điểm này sẽ căng “cân đối” ở một điểm khác.
Nguyên nhân của hiện tượng này đang được giải thích từ sự phòng vệ trước khả năng thanh khoản của một số ngân hàng, khi lực hút huy động không còn lợi thế về lãi suất. Trong khi đó, cũng với mục tiêu đó, những ngân hàng dư vốn khả dụng không mở hầu bao. Cầu vay đang đẩy lãi suất tăng.
Mặt khác, theo thời điểm thường thấy, đây là kỳ đáo hạn quý đầu năm của nhiều hợp đồng tiền gửi, yêu cầu giải ngân tăng lên cộng với yêu cầu dự trữ bắt buộc đầu tháng.
Cầu vốn và lãi suất căng, khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, người tiêu dùng lại đứng trước khó khăn. Lãi suất cho vay đầu ra vừa đứng trước cơ hội giảm theo lãi suất huy động lại vấp phải trở ngại.
Một lần nữa, vai trò của Ngân hàng Nhà nước lại được nhắc tới; thông điệp hỗ trợ thanh khoản cho các thành viên đưa ra trước đó đang chờ bảo đảm giá trị.
Trong phiên ngày 20/10/2025, tuỳ từng thương hiệu, sau khi tăng từ 1 triệu - 1,5 triệu đồng/lượng đối với chiều mua và 500 nghìn đồng/lượng đối với chiều bán, chênh lệch giá mua, bán vàng miếng SJC dao động ở mức 500 nghìn – 1 triệu đồng/lượng, giảm từ 300 nghìn – 1 triệu đồng/lượng so với phiên 18/10/2025...
Số liệu cho thấy, Khu vực 3 gồm các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu có tiềm năng lớn về nông nghiệp, thủy điện, du lịch và khoáng sản nhưng nguốn vốn huy động tại chỗ không thể đáp ứng nhu cầu. Đây là tình trạng không phải hiếm gặp trên cả nước...
Thông tư 01/2021/TT-NHNN dẫn đến tình trạng các ngân hàng Nhà nước chi phối vốn dồn hàng chục nghìn tỷ đồng mua trái phiếu ngân hàng cổ phần với lãi suất rất thấp nhưng kỳ hạn dài và thiếu căn cứ để giám sát. Thanh tra Chính phủ kiến nghị cần sửa đổi thông tư này...
Nâng hạng thị trường chứng khoán mang lại "cú hích" mạnh mẽ, mở ra cơ hội đón dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài từ các quỹ chủ động và quỹ chỉ số toàn cầu. Song, cần nhận diện rõ cơ hội và những thách thức đi kèm trong giai đoạn mới…
Kể từ phiên đầu tuần đến nay (13-17/10), giá bán vàng miếng SJC ghi nhận mức tăng phổ biến là 10,2 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, tuỳ từng thương hiệu, giá bán vàng nhẫn tăng từ 12,7 triệu đồng đến 17,1 triệu đồng/lượng...
Doanh nghiệp niêm yết
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: