Trong con số nhập siêu khoảng 6,5 tỷ USD của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2009, có một phần đáng kể đến từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên, “tỷ lệ
nhập siêu năm 2009 từ Trung Quốc sẽ không cao hơn năm 2008”.
Có cơ sở để Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên tin tưởng vào điều này, bởi trong quan hệ thương mại của Việt Nam với
Trung Quốc, sắp tới là giai đoạn có thể có nhiều thay đổi. Tại
Đại lễ đường Dân tộc (Nam Ninh, Quảng Tây) sáng 20/10, trước các nhà
báo Việt Nam, ông Biên nói:
- Như chúng ta đều biết, trong quan
hệ thương mại Việt Nam và Trung Quốc có hiện tượng mất cân đối, Việt
Nam đang nhập siêu từ Trung Quốc.
Để cải thiện tình hình, theo
tôi một trong những giải pháp là đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang
thị trường Trung Quốc, theo các con đường chính ngạch, cũng như đẩy
mạnh quan hệ buôn bán biên mậu giữa các tỉnh biên giới Việt Nam và các
tỉnh biên giới Trung Quốc, nhất là Quảng Tây, Vân Nam.
Năm
tới, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA) sẽ bắt đầu khởi
động. Điều này sẽ hỗ trợ gì cho hàng Việt Nam đi vào Trung Quốc?
Thời
gian qua, hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc đã đàm
phán và được triển khai theo từng giai đoạn, từ chương trình thu hoạch
sớm, cho đến hiệp định về hàng hóa, hiệp định về dịch vụ và gần đây là
hiệp định về đầu tư.
Bắt đầu từ năm 2010, các khung khổ trong
hiệp định về mậu dịch tự do giữa ASEAN – Trung Quốc sẽ được triển khai
đồng bộ. Chúng tôi cho rằng đây là cơ hội rất tốt cho doanh nghiệp Việt
Nam, để tận dụng cơ hội thị trường rộng lớn với trên 1,3 tỷ dân mà
Trung Quốc đem lại.
Nhưng theo ông, doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tận dụng cơ hội này không?
Tham
gia vào khu vực mậu dịch tự do này cũng đặt ra những vấn đề rất lớn,
đối với Việt Nam là khả năng cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp cũng
như của hàng hóa, dịch vụ. Bởi vì hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc
rất rẻ và có sức cạnh tranh cao trong thị trường khu vực và thị trường
Việt Nam.
Để tận dụng cơ hội đem lại từ khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực từ phía doanh nghiệp,
trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình, cũng như hàng
hóa mà doanh nghiệp cung cấp cho thị trường Trung Quốc.
Một
trong những điểm đáng lưu ý khi triển khai CAFTA là việc sử dụng đồng Nhân dân tệ trong thanh toán nội khối. Ông đánh giá thế nào về việc này?
Trong
bối cảnh hiện nay, chúng ta đang có những nỗ lực để giảm bớt sự phục
thuộc hoạt động ngoại thương Việt Nam vào các đồng tiền ngoài tệ truyền
thống, nhất là USD. Trên thị trường Việt Nam, có những lúc đã xảy ra
tình trạng căng thẳng trong mua bán USD, kể cả trên thị trường tự do
cũng như thị trường liên ngân hàng.
Cho nên chúng tôi đã
khuyến cáo các doanh nghiệp cần phải đa dạng hóa rổ ngoại tệ, không nên
quá phụ thuộc vào đồng USD, nên mạnh dạn áp dụng những phương tiện
thanh toán khác, những đồng tiền thanh toán khác ngoài USD, ví dụ như
đồng Euro, Yên Nhật, Bảng Anh và các đồng tiền khác.
Riêng với
thị trường Trung Quốc, như đã biết, Chính phủ Trung Quốc đã giao cho
tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây xúc tiến ứng dụng việc thanh toán trong
thương mại với các nước ASEAN bằng đồng nhân dân tệ.
Hiện nay
thanh toán giữa các doanh nghiệp buôn bán biên mậu đã được ngân hàng
nhà nước hai bên chính thức chấp thuận và cũng có rất nhiều hợp đồng
thanh toán bằng Nhân dân tệ. Như vậy, chúng ta hạn chế được sức ép phải
huy động một lực lượng lớn đồng USD trong thanh toán với doanh nghiệp
Trung Quốc, trong bối cảnh chúng ta vẫn nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc.
Về phía Chính phủ, việc này đang được triển khai như thế nào và bao giờ sẽ có các quy định cụ thể?
Hiện
nay, Bộ Công Thương đang cùng với Ngân hàng Nhà nước xúc tiến đẩy mạnh
việc nghiên cứu các khả năng thanh toán sử dụng đồng nhân dân tệ trong
quan hệ thương mại với Trung Quốc.
Ngân hàng Nhà nước cũng đang
xây dựng một đề án để chính thức trình Chính phủ, xin phép triển khai
thanh toán dùng các đồng tiền khác, trong đó có việc sử dụng đồng nhân
dân tệ trong thanh toán với các doanh nghiệp Trung Quốc.