Nợ đọng thuế, có nợ quá hạn vẫn có thể được bảo lãnh vay vốn
Đây là những điều chỉnh mới theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quy chế bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn
Đây là những điều chỉnh mới theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quy chế bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn.
Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điểm trong quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại (theo Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg đã được ban hành ngày 21/1/2009).
Theo điều chỉnh mới, đối tượng được Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) bảo lãnh vay vốn là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động. Quy định trước đó là có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động.
Quyết định trên cũng sửa đổi phạm vi bảo lãnh; không bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn, kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán; dịch vụ; vay vốn để thanh toán nợ vay của các hợp đồng tín dụng khác. Trong lĩnh vực này, chỉ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn thực hiện các dự án xây dựng nhà ở bán cho người có thu nhập thấp; nhà cho công nhân và sinh viên thuê; xây dựng nghĩa trang.
Đáng chú ý là Thủ tướng đã có một số điều chỉnh mới, liên quan đến các điều kiện trước đó, tạo điều kiện để mở rộng hơn các đối tượng được hỗ trợ.
Theo các điều kiện trước đây, để được bảo lãnh vay vốn, doanh nghiệp không có nợ đọng thuế, doanh nghiệp không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế và sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay (tối đa 90%) và vốn chủ sở hữu (tối thiểu 10%) để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại Bên bảo lãnh…
Nhưng theo những điều chỉnh mới, điều kiện nợ đọng thuế được xóa bỏ hoàn toàn. Trường hợp doanh nghiệp có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng nhưng có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và cam kết trả được nợ quá hạn thì sẽ được bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo lãnh vay vốn. Đồng thời, doanh nghiệp sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu tư để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại bên bảo lãnh.
Khi có văn bản thông báo chấp thuận bảo lãnh của bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh xem xét và ký hợp đồng tín dụng với doanh nghiệp không phải thẩm định lại các điều kiện quy định doanh nghiệp được bảo lãnh vay vốn.
Về tiến độ thực hiện bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cho biết, tính đến ngày 3/4, 100% chi nhánh VDB đã tổ chức triển khai nghiệp vụ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại theo quy định tại Quyết định 14/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 34 ngân hàng thương mại đã ký thoả thuận hợp tác triển khai nghiệp vụ bảo lãnh này với VDB.
Đến thời điểm trên, 54 chi nhánh của VDB đã ký chấp thuận 192 thông báo bảo lãnh, trong đó thông báo chấp thuận bảo lãnh cho 13 dự án và 179 phương án sản xuất kinh doanh với tổng số tiền chấp thuận bảo lãnh là 1.073.618 triệu đồng. 47 Chi nhánh đã phát hành 90 chứng thư bảo lãnh, trong đó, phát hành chứng thư cho 2 dự án và 88 phương án sản xuất kinh doanh với tổng số tiền ghi tại chứng thư bảo lãnh là 541.988 triệu đồng.
Số hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn đã nhận, đang trong quá trình thẩm định là 291 hồ sơ; trong đó, có 69 hồ sơ dự án và 222 hồ sơ phương án sản xuất kinh doanh.
Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điểm trong quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại (theo Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg đã được ban hành ngày 21/1/2009).
Theo điều chỉnh mới, đối tượng được Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) bảo lãnh vay vốn là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động. Quy định trước đó là có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động.
Quyết định trên cũng sửa đổi phạm vi bảo lãnh; không bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn, kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán; dịch vụ; vay vốn để thanh toán nợ vay của các hợp đồng tín dụng khác. Trong lĩnh vực này, chỉ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn thực hiện các dự án xây dựng nhà ở bán cho người có thu nhập thấp; nhà cho công nhân và sinh viên thuê; xây dựng nghĩa trang.
Đáng chú ý là Thủ tướng đã có một số điều chỉnh mới, liên quan đến các điều kiện trước đó, tạo điều kiện để mở rộng hơn các đối tượng được hỗ trợ.
Theo các điều kiện trước đây, để được bảo lãnh vay vốn, doanh nghiệp không có nợ đọng thuế, doanh nghiệp không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế và sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay (tối đa 90%) và vốn chủ sở hữu (tối thiểu 10%) để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại Bên bảo lãnh…
Nhưng theo những điều chỉnh mới, điều kiện nợ đọng thuế được xóa bỏ hoàn toàn. Trường hợp doanh nghiệp có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng nhưng có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và cam kết trả được nợ quá hạn thì sẽ được bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo lãnh vay vốn. Đồng thời, doanh nghiệp sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu tư để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại bên bảo lãnh.
Khi có văn bản thông báo chấp thuận bảo lãnh của bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh xem xét và ký hợp đồng tín dụng với doanh nghiệp không phải thẩm định lại các điều kiện quy định doanh nghiệp được bảo lãnh vay vốn.
Về tiến độ thực hiện bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cho biết, tính đến ngày 3/4, 100% chi nhánh VDB đã tổ chức triển khai nghiệp vụ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại theo quy định tại Quyết định 14/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 34 ngân hàng thương mại đã ký thoả thuận hợp tác triển khai nghiệp vụ bảo lãnh này với VDB.
Đến thời điểm trên, 54 chi nhánh của VDB đã ký chấp thuận 192 thông báo bảo lãnh, trong đó thông báo chấp thuận bảo lãnh cho 13 dự án và 179 phương án sản xuất kinh doanh với tổng số tiền chấp thuận bảo lãnh là 1.073.618 triệu đồng. 47 Chi nhánh đã phát hành 90 chứng thư bảo lãnh, trong đó, phát hành chứng thư cho 2 dự án và 88 phương án sản xuất kinh doanh với tổng số tiền ghi tại chứng thư bảo lãnh là 541.988 triệu đồng.
Số hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn đã nhận, đang trong quá trình thẩm định là 291 hồ sơ; trong đó, có 69 hồ sơ dự án và 222 hồ sơ phương án sản xuất kinh doanh.