S&P 500 và Nasdaq đua nhau vượt dốc
S&P 500 chạm mức cao nhất kể từ tháng 9/2008, trong khi Nasdaq vượt lên mức đỉnh kể từ 31/12/2007
Số liệu thương mại khả quan đã giúp chứng khoán Mỹ tăng điểm phiên cuối tuần. S&P 500 lên mức cao nhất kể từ khi ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ tháng 9/2008, trong khi Nasdaq chạm mức cao nhất kể từ 31/12/2007 sau khi tăng 8 phiên liên tiếp.
Kết thúc ngày giao dịch 10/12, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng 40,26 điểm (+0,35%) lên 11.410,26 điểm. Chỉ số S&P 500 cộng 7,40 điểm (+0,6%) lên 1.240,40 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 20,87 điểm (+0,8%) lên 2.637,54 điểm.
Khối lượng cổ phiếu chuyển nhượng trên cả 3 sàn New York, American và Nasdaq đạt 7,4 tỷ, thấp hơn mức trung bình hàng ngày 8,62 tỷ cổ phiếu từ đầu năm tới nay.
Như vậy, tính cả tuần giao dịch, chỉ số Dow Jones tăng 0,2%, S&P 500 tăng 1,3% và Nasdaq tăng tới 1,8%. Nếu tính từ đầu năm tới nay, Dow Jones tăng 9,42%, S&P 500 tăng 11,24% và Nasdaq lao vọt 16,23%.
Hôm qua, thị trường nhận được tín hiệu lạc quan về kết quả thương mại tháng 10. Theo công bố, thâm hụt thương mại giảm 13,2% xuống 38,7 tỷ USD, thấp nhất trong 9 tháng qua. Xuất khẩu đạt cao nhất trong hơn 2 năm.
Chỉ số niềm tin tiêu dùng tháng 12 do Thomson Reuters và đại học Michigan công bố đã tăng lên mức 74,2, cao nhất trong 6 tháng. Người tiêu dùng Mỹ tăng cường mua sắm trong tháng cuối năm.
Nhà đầu tư cũng phấn khởi khi có dấu hiệu cho thấy khả năng Thượng viện Mỹ sẽ thông qua kế hoạch kéo dài chương trình cắt giảm thuế thêm 2 năm nữa cho tất cả người dân Mỹ.
Ngoài ra, thị trường còn chịu ảnh hưởng từ một số tin tức quốc tế. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc Trung Quốc công bố thặng dư thương mại tháng 11 đạt 22,9 tỷ USD và việc ngân hàng trung ương nước này lần thứ 6 trong năm yêu cầu nâng dự trữ bắt buộc.
Trong khi đó, khu vực chứng khoán châu Âu chốt phiên với kết quả đan xen. Chỉ số FTSE 100 của Anh tăng 0,09% lên 5.812,95 điểm, DAX của Đức tăng 0,6% lên 7.006,17 điểm. Ngược lại, CAC 40 của Pháp hạ 0,02% xuống 3.857,35 điểm.
Hầu hết các thị trường chứng khoán châu Á đều giảm điểm trong phiên giao dịch ngày 10/12 do nhà đầu tư thận trọng về khả năng Trung Quốc tăng lãi suất và công bố số liệu CPI tháng 11 vào cuối tuần này.
Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản giảm 0,72%. Hang Seng của Hồng Kông giảm 0,04%. Taiex của Đài Loan trượt 0.4%. Straits Times của Singapore giảm 0,77%. Kospi của Hàn Quốc hạ 0,14%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số Shanghai Composite tăng 1,07% lên 2.841,04 điểm. Chỉ số All Ordinaries của Australia tăng nhẹ 0,05% lên 4.830 điểm.
Bảng 1: So sánh kết quả các thị trường chốt phiên 9 và 10/12
Bảng 2: So sánh kết quả các thị trường chốt tuần trước và tuần này
Kết thúc ngày giao dịch 10/12, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng 40,26 điểm (+0,35%) lên 11.410,26 điểm. Chỉ số S&P 500 cộng 7,40 điểm (+0,6%) lên 1.240,40 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 20,87 điểm (+0,8%) lên 2.637,54 điểm.
Khối lượng cổ phiếu chuyển nhượng trên cả 3 sàn New York, American và Nasdaq đạt 7,4 tỷ, thấp hơn mức trung bình hàng ngày 8,62 tỷ cổ phiếu từ đầu năm tới nay.
Như vậy, tính cả tuần giao dịch, chỉ số Dow Jones tăng 0,2%, S&P 500 tăng 1,3% và Nasdaq tăng tới 1,8%. Nếu tính từ đầu năm tới nay, Dow Jones tăng 9,42%, S&P 500 tăng 11,24% và Nasdaq lao vọt 16,23%.
Hôm qua, thị trường nhận được tín hiệu lạc quan về kết quả thương mại tháng 10. Theo công bố, thâm hụt thương mại giảm 13,2% xuống 38,7 tỷ USD, thấp nhất trong 9 tháng qua. Xuất khẩu đạt cao nhất trong hơn 2 năm.
Chỉ số niềm tin tiêu dùng tháng 12 do Thomson Reuters và đại học Michigan công bố đã tăng lên mức 74,2, cao nhất trong 6 tháng. Người tiêu dùng Mỹ tăng cường mua sắm trong tháng cuối năm.
Nhà đầu tư cũng phấn khởi khi có dấu hiệu cho thấy khả năng Thượng viện Mỹ sẽ thông qua kế hoạch kéo dài chương trình cắt giảm thuế thêm 2 năm nữa cho tất cả người dân Mỹ.
Ngoài ra, thị trường còn chịu ảnh hưởng từ một số tin tức quốc tế. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc Trung Quốc công bố thặng dư thương mại tháng 11 đạt 22,9 tỷ USD và việc ngân hàng trung ương nước này lần thứ 6 trong năm yêu cầu nâng dự trữ bắt buộc.
Trong khi đó, khu vực chứng khoán châu Âu chốt phiên với kết quả đan xen. Chỉ số FTSE 100 của Anh tăng 0,09% lên 5.812,95 điểm, DAX của Đức tăng 0,6% lên 7.006,17 điểm. Ngược lại, CAC 40 của Pháp hạ 0,02% xuống 3.857,35 điểm.
Hầu hết các thị trường chứng khoán châu Á đều giảm điểm trong phiên giao dịch ngày 10/12 do nhà đầu tư thận trọng về khả năng Trung Quốc tăng lãi suất và công bố số liệu CPI tháng 11 vào cuối tuần này.
Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản giảm 0,72%. Hang Seng của Hồng Kông giảm 0,04%. Taiex của Đài Loan trượt 0.4%. Straits Times của Singapore giảm 0,77%. Kospi của Hàn Quốc hạ 0,14%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số Shanghai Composite tăng 1,07% lên 2.841,04 điểm. Chỉ số All Ordinaries của Australia tăng nhẹ 0,05% lên 4.830 điểm.
Bảng 1: So sánh kết quả các thị trường chốt phiên 9 và 10/12
Thị trường | Chỉ số | Phiên trước | Đóng cửa | Tăng/giảm (điểm) | Tăng/giảm (%) |
Mỹ | Dow Jones | 11.370,10 | 11.410,30 | 40,26 | 0,35 |
S&P 500 | 1.233,00 | 1.240,40 | 7,40 | 0,60 | |
Nasdaq | 2.616,67 | 2.637,54 | 20,87 | 0,80 | |
Anh | FTSE 100 | 5.807,96 | 5.812,95 | 4,99 | 0,09 |
Pháp | CAC 40 | 3.858,05 | 3.857,35 | 0,70 | 0,02 |
Đức | DAX | 6.964,16 | 7.006,17 | 42,01 | 0,60 |
Nhật Bản | Nikkei 225 | 10.285,90 | 10.212,00 | 73,93 | 0,72 |
Hồng Kông | Hang Seng | 23.171,80 | 23.162,90 | 8,89 | 0,04 |
Trung Quốc | Shanghai Composite | 2.810,95 | 2.841,04 | 30,09 | 1,07 |
Đài Loan | Taiwan Weighted | 8.753,84 | 8.718,83 | 35,01 | 0,40 |
Hàn Quốc | KOSPI Composite | 1.988,96 | 1.986,14 | 2,82 | 0,14 |
Ấn Độ | BSE | 19.242,40 | 19.508,90 | 266,53 | 1,39 |
Singapore | Straits Times | 3.210,20 | 3.185,42 | 24,78 | 0,77 |
Nguồn: CNBC, Market Watch. |
Bảng 2: So sánh kết quả các thị trường chốt tuần trước và tuần này
Thị trường | Chỉ số | Tuần trước | Tuần này | Tăng/giảm (điểm) |
Mỹ | Dow Jones | 11.382,10 | 11.410,30 | 28,20 |
S&P 500 | 1.224,71 | 1.240,40 | 15,69 | |
Nasdaq | 2.591,46 | 2.637,54 | 46,08 | |
Anh | FTSE 100 | 5.745,32 | 5.812,95 | 67,63 |
Pháp | CAC 40 | 3.750,55 | 3.857,35 | 106,80 |
Đức | DAX | 6.947,72 | 7.006,17 | 58,45 |
Nhật Bản | Nikkei 225 | 10.178,30 | 10.212,00 | 33,70 |
Hồng Kông | Hang Seng | 23.320,50 | 23.162,90 | 157,60 |
Trung Quốc | Shanghai Composite | 2.842,43 | 2.841,04 | 1,39 |
Đài Loan | Taiwan Weighted | 8.624,01 | 8.718,83 | 94,82 |
Hàn Quốc | KOSPI Composite | 1.957,26 | 1.986,14 | 28,88 |
Ấn Độ | BSE | 19.966,90 | 19.508,90 | 458,00 |
Singapore | Straits Times | 3.172,44 | 3.185,42 | 12,98 |
Nguồn: CNBC, Market Watch. |