Thuế tài nguyên với dầu thô, đá quý, nước khoáng... sẽ tăng
Thuế suất thuế tài nguyên đối với nhiều loại khoáng sản, sản phẩm thiên nhiên… sẽ tăng so với trước
Thuế suất thuế tài nguyên đối với nhiều loại khoáng sản, sản phẩm thiên nhiên… sẽ tăng so với trước.
Đó là nội dung chính của Nghị định 05/2009/NĐ-CP, quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thuế tài nguyên và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh Thuế tài nguyên, vừa được Chính phủ ban hành. Nghị định được áp dụng từ ngày 19/1/2009.
Cụ thể, thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại đều tăng thêm khoảng từ 2-4 % như kim loại đen, chì, kẽm, nhôm... tăng từ 5% lên 7%; vàng sa khoáng, vàng cốm tăng từ 6% lên 9%.
Thuế suất đối với các loại than tăng gấp 2 lần, như than an tra xít hầm lò tăng từ 2% lên 4%, than an-tra-xít lộ thiên và than nâu, than mỡ tăng từ 3% lên 6%. Riêng kim cương, ru bi, saphia tăng từ 8% lên 16%; adit, rôđôlit, thạch anh tinh thể... tăng từ 5% lên 12%.
Đối với dầu thô, thuế suất thuế tài nguyên tăng thêm 2%; cụ thể, sản lượng khai thác đến 20.000 thùng/ngày thì thuế suất là 6% đối với dự án khuyến khích đầu tư, 8% đối với dự án khác; trên 20.000 thùng đến 50.000 thùng/ngày thì thuế suất tương ứng là 8% và 10%...
Với sản phẩm rừng và thủy sản tự nhiên, đa số các mức thuế suất được giữ nguyên, trừ gỗ tròn nhóm 3, 4, gỗ trụ mỏ, gỗ tẩm, gỗ đước, gỗ tràm... thuế suất tăng thêm 5%.
Nước khoáng thiên nhiên, nước thiên nhiên, khí thiên nhiên, khí than, thuế suất được giữ nguyên so với mức cũ quy định tại Quyết định 16/2008/QĐ-BTC ngày 14/4/2008 của Bộ Tài chính.
Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế tài nguyên được xác định là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất.
Riêng đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than, căn cứ tính thuế được xác định trên cơ sở lũy tiến từng phần của tổng sản lượng dầu, khí thực khai thác trong mỗi kỳ nộp thuế, tính theo sản lượng dầu, khí bình quân mỗi ngày khai thác được của hợp đồng dầu, khí, thuế suất thuế tài nguyên và số ngày khai thác trong kỳ tính thuế.
Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế tài nguyên theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Riêng đối với sản phẩm dầu và khí, thuế tài nguyên được nộp bằng dầu thô, khí thiên nhiên, khí than, bằng tiền hoặc một phần bằng tiền và một phần bằng dầu khí theo quy định của Bộ Tài chính.
Cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế bằng văn bản trước 6 tháng về việc nộp thuế tài nguyên bằng tiền hay bằng dầu khí.
Miễn, giảm thuế tài nguyên
Nghị định cũng quy định các trường hợp được miễn, giảm thuế tài nguyên, bao gồm tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên gặp thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ, gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai và nộp thuế được xét miễn thuế tài nguyên phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất.
Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế tài nguyên trong 5 năm kể từ khi được cấp giấy phép khai thác và giảm 50% thuế tài nguyên trong 5 năm tiếp theo.
Miễn thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên do cá nhân được phép khai thác phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày như gỗ, cành, củi, tre, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô; đồng thời, miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng vào sản xuất thủy điện không hòa vào mạng lưới điện quốc gia...
Đó là nội dung chính của Nghị định 05/2009/NĐ-CP, quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thuế tài nguyên và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh Thuế tài nguyên, vừa được Chính phủ ban hành. Nghị định được áp dụng từ ngày 19/1/2009.
Cụ thể, thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại đều tăng thêm khoảng từ 2-4 % như kim loại đen, chì, kẽm, nhôm... tăng từ 5% lên 7%; vàng sa khoáng, vàng cốm tăng từ 6% lên 9%.
Thuế suất đối với các loại than tăng gấp 2 lần, như than an tra xít hầm lò tăng từ 2% lên 4%, than an-tra-xít lộ thiên và than nâu, than mỡ tăng từ 3% lên 6%. Riêng kim cương, ru bi, saphia tăng từ 8% lên 16%; adit, rôđôlit, thạch anh tinh thể... tăng từ 5% lên 12%.
Đối với dầu thô, thuế suất thuế tài nguyên tăng thêm 2%; cụ thể, sản lượng khai thác đến 20.000 thùng/ngày thì thuế suất là 6% đối với dự án khuyến khích đầu tư, 8% đối với dự án khác; trên 20.000 thùng đến 50.000 thùng/ngày thì thuế suất tương ứng là 8% và 10%...
Với sản phẩm rừng và thủy sản tự nhiên, đa số các mức thuế suất được giữ nguyên, trừ gỗ tròn nhóm 3, 4, gỗ trụ mỏ, gỗ tẩm, gỗ đước, gỗ tràm... thuế suất tăng thêm 5%.
Nước khoáng thiên nhiên, nước thiên nhiên, khí thiên nhiên, khí than, thuế suất được giữ nguyên so với mức cũ quy định tại Quyết định 16/2008/QĐ-BTC ngày 14/4/2008 của Bộ Tài chính.
Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế tài nguyên được xác định là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất.
Riêng đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than, căn cứ tính thuế được xác định trên cơ sở lũy tiến từng phần của tổng sản lượng dầu, khí thực khai thác trong mỗi kỳ nộp thuế, tính theo sản lượng dầu, khí bình quân mỗi ngày khai thác được của hợp đồng dầu, khí, thuế suất thuế tài nguyên và số ngày khai thác trong kỳ tính thuế.
Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế tài nguyên theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Riêng đối với sản phẩm dầu và khí, thuế tài nguyên được nộp bằng dầu thô, khí thiên nhiên, khí than, bằng tiền hoặc một phần bằng tiền và một phần bằng dầu khí theo quy định của Bộ Tài chính.
Cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế bằng văn bản trước 6 tháng về việc nộp thuế tài nguyên bằng tiền hay bằng dầu khí.
Miễn, giảm thuế tài nguyên
Nghị định cũng quy định các trường hợp được miễn, giảm thuế tài nguyên, bao gồm tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên gặp thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ, gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai và nộp thuế được xét miễn thuế tài nguyên phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất.
Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế tài nguyên trong 5 năm kể từ khi được cấp giấy phép khai thác và giảm 50% thuế tài nguyên trong 5 năm tiếp theo.
Miễn thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên do cá nhân được phép khai thác phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày như gỗ, cành, củi, tre, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô; đồng thời, miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng vào sản xuất thủy điện không hòa vào mạng lưới điện quốc gia...