Vốn ngoại "bí" đầu ra
Các nhà quản lý vĩ mô đang tìm cách để 9 tỷ USD mua vào dự trữ đem lại lợi ích cho cả bên mua và bên bán
Sáu tháng đầu 2007, Ngân hàng nhà nước mua 9 tỷ USD vào dự trữ. Những ngày này, dòng vốn ngoại tiếp tục chảy vào và Ngân hàng Nhà nước không thể không mua để tăng dự trữ và thực thi chính sách “đồng tiền yếu”.
Nhưng mua USD rồi thì phải làm thế nào để bên mua và bên bán đều được lợi thì các nhà quản lý vĩ mô vẫn loay hoay...
Trả lời báo giới mới đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố, trong 6 tháng đầu 2007, Ngân hàng Nhà nước mua vào dự trữ 9 tỷ USD, tương đương với 144 nghìn tỷ VND thay vì con số 7 tỷ USD (tương đương 112 nghìn tỷ VND) như nhiều người vẫn nói.
Tuy nhiên, con số này chưa dừng ở đây, bởi một số chuyên dự báo rằng, những tháng cuối 2007, một lượng ngoại tệ khoảng 3 - 4 tỷ USD tiếp tục chảy vào Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước không còn cách nào khác là tiếp tục mua vào.
Mua đô la để hỗ trợ tăng trưởng
Vì sao Ngân hàng Nhà nước phải mua USD? TS. Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) phân tích: “Phải mua vì trên thị trường quá nhiều USD từ các nguồn đầu tư gián tiếp (FII) và kiều hối. Mặt khác, do quy định của Ngân hàng Nhà nước không cho phép đầu tư FII bằng USD nên các Ngân hàng Nhà nước buộc phải mua USD và chuyển VND cho họ”.
Cũng theo TS. Ánh, một nguyên nhân khác cực kỳ quan trọng là tính đến nay, thâm hụt thương mại bị âm 9 tỷ USD nên phải có một khoản tương đương để bù vào đó.
Đồng nhất với TS. Ánh, TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ Trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) lý giải: “Về nguyên tắc, khi đồng USD yếu đi thì VND tăng giá và xuất khẩu Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, giá cả trở nên đắt đỏ và kém cạnh tranh quốc tế. Trong trường hợp như vậy, Ngân hàng Nhà nước bao giờ cũng thực thi chính sách tiền tệ “VND tương đối yếu một tí”, có nghĩa là tỷ giá danh nghĩa phải cao hơn tỷ giá thực một chút nhằm thực hiện chiến lược hỗ trợ xuất khẩu”.
Quan điểm này là hoàn toàn thực tế, bởi nhìn vào con số sau sẽ thấy rất rõ: Theo thống kê đến tháng 9/2007, kim ngạch xuất khẩu lên tới 39 tỷ USD, bình quân mỗi tháng đạt 4,3 tỷ USD, cộng dồn cả năm khoảng 51,6 tỷ USD. Với quy mô GDP năm 2006 là 65 tỷ USD, giả định rằng tốc độ tăng trưởng năm nay là 10% thì GDP 2007 sẽ ước 72 tỷ USD. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 71,6% GDP! Một nền kinh tế mà xuất khẩu chiếm tới 71% GDP thì không có lý do gì không theo đuổi chiến lược hỗ trợ xuất khẩu.
Càng IPO càng lạm phát?
Trở lại với câu chuyện mua USD của Ngân hàng Nhà nước. Theo các chuyên gia, trong số 9 tỷ mà Ngân hàng Nhà nước mua vào thì có tới 6 tỷ là từ đầu tư FII. Dòng vốn này từ các quỹ, nhà đầu tư nước ngoài chảy vào để đợi Chính phủ IPO những “miếng giữa làng” như Vietcombank, Incombank hay Tập đoàn dầu khí...Và chúng sẽ tiếp tục chảy vào khoảng 3 - 4 tỷ USD trong những tháng còn lại của năm 2007.
Chúng ta thử phân tích xem sự ảnh hưởng của dòng vốn này đối với lạm phát và tiến trình cổ phần hóa như thế nào. TS. Vũ Đình Ánh lập luận: “Phần lớn số VND đưa ra sau khi trao đổi USD từ dòng vốn FII là không vào lưu thông mà nằm trong tay nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi những doanh nghiệp “ngon” đã hết “room” và chủ trương của CP là không mở “room” quá 30% nên họ đã hết nguồn để mua và đành găm số tiền trên vào tài khoản ngân hàng thương mại, chờ CP IPO những doanh nghiệp lớn”.
Giả định rằng, số tiền 96 nghìn tỷ VND (tương đương 6 tỷ USD) mà các nhà đầu tư nước ngoài sau khi mua bán với Ngân hàng Nhà nước nhưng lại đem cất vào các ngân hàng thương mại thì điều gì sẽ xảy ra?
Thứ nhất, số tiền này sẽ chưa tác động lên chỉ số CPI vì chúng chưa đi vào lưu thông. Tuy nhiên, nếu cứ “găm” mãi trong ngân hàng thương mại thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị thiệt vì không ai mang tiền vào để rồi hưởng lãi suất không kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại và họ cũng không hề chủ định tiêu dùng hay đầu tư trực tiếp với số tiền này mà mục đích chính là buôn bán cổ phiếu.
Thực tế này dẫn đến môi trường đầu tư sẽ bị tác động tiêu cực và “sân chơi” thị trường chứng khoán trở nên chật hẹp. Mặt khác, trong lúc các ngân hàng thương mại đang dư vốn thì dòng vốn này càng làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng “khóc dở mếu dở” vì vẫn phải trả lãi huy động trong khi rất khó giải ngân. Chưa kể, nếu tăng trưởng tín dụng quá mức, sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn và đối mặt với nghiệp vụ khống chế tăng trưởng dư nợ từ phía Ngân hàng Nhà nước. Đây là một nghịch lý mà hiện tại các nhà quản lý dường như chưa để mắt tới.
Thứ hai, trong trường hợp Chính phủ tiếp tục IPO những doanh nghiệp lớn hoặc mở “room” những doanh nghiệp “ngon” đã IPO thì ngay lập tức, dòng vốn này sẽ tác động lên CPI và gây lạm phát. Bởi lẽ, sau IPO, doanh nghiệp sẽ thu về một lượng thặng dư cổ phần khổng lồ và họ đem vốn vào đầu tư. Thử hình dung, 96 nghìn tỷ VND chảy vào lưu thông (như nói trên) và từ nay đến hết năm, Chính phủ tiến hành IPO Vietcombank và Incombank thì dòng vốn đó ngày một lớn thêm, chúng tác động lên mặt bằng giá lớn đến mức khủng khiếp như thế nào.
Trong một bối cảnh đang nhạy cảm về lạm phát thì bất cứ một lượng tiền dư thừa nào đưa vào lưu thông sẽ trở nên nguy hiểm, kể cả vào sản xuất thì vẫn đem lại nguy cơ đẩy giá tăng lên. “Cách tốt nhất là mặc kệ, dừng IPO!” - TS. Vũ Đình Ánh kết luận. Tuy nhiên, nếu “mặc kệ” thì tiến trình cổ phần hóa, nhất là cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn sẽ tiếp tục bị trì hoãn và Chính phủ không mong đợi điều này.
“Lộc” đến nhưng chưa biết tận hưởng!
Một chuyên gia kinh tế ví von: “Từ đầu năm đến nay, dòng vốn FII và kiều hối chảy vào Việt Nam và đó là vận đỏ của nền kinh tế. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý lại chưa chuẩn bị tốt để... “chống đỡ” lại vận đỏ này!”.
Giải pháp trước mắt đối phó với tình huống này, theo một chuyên gia, các doanh nghiệp chỉ nên thực hiện thu hút vốn khi thực sự cần vốn và có phương án sử dụng vốn có hiệu quả. Tránh tình trạng nương dựa vào sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu một cách không tính toán để thu về một lượng thặng dư lớn gấp nhiều lần vốn điều lệ nhưng sử dụng không hiệu quả.
Các đợt phát hành gần đây của một số doanh nghiệp và tình trạng phát hành cổ phiếu trong các ngân hàng là những ví dụ. Một khi đồng vốn sinh lời thấp sẽ dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp. Hiệu quả đầu tư thấp nhưng lại cứ đổ vốn vào sẽ đi đến tăng trưởng nóng và lợi nhuận thấp. Từ đó, nền kinh tế lâm vào nợ nần và con đường đến với khủng hoảng tài chính sẽ chẳng bao xa.
Để chứng minh cho nhận xét này, chuyên gia nói trên đưa ra một công cụ tính toán sự tăng trưởng bền vững thông qua chỉ số Icor: Giả định rằng, năm 2006, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 41% GDP, tăng trưởng thực là 8% thì chỉ số Icor là 41 : 8 = 5,1. Năm 2007, tăng trưởng trên 8,5% và vốn đầu tư khoảng 43% GDP thì Icor của năm này là cũng khoảng 5. Thông thường, Icor của các nước chỉ 3 - 4. Theo chuyên gia này thì hiện tại, chỉ số Icor của Việt Nam ở mức trên 5. Đây là sự cảnh báo lớn về tăng trưởng thiếu bền vững.
Tuy nhiên, về dài hạn thì việc dừng hoặc hạn chế thu hút vốn từ kênh thị trường chứng khoán nhằm giảm tác động lên lạm phát là không khả thi bởi không một một nền kinh tế nào không mong muốn có được nguồn lực từ dòng vốn này, nhất là dòng vốn FII.
TS. Cao Sĩ Kiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia nói: “Vốn vào thì quan trọng nhất là phải sử dụng đồng vốn đó một cách hiệu quả. Phải đầu tư vào sản xuất kinh doanh ra sản phẩm, để không chỉ tăng nguồn hàng phục vụ xuất khẩu mà còn làm cân đối quan hệ tiền - hàng, tránh lạm phát.