Báo cáo Harvard: Việt Nam cần từng bước giảm giá VND
Chính phủ cần ưu tiên cao cho việc từng bước giảm giá VND và chú trọng đúng mức tới xu thế và mức tỷ giá hiệu dụng thực
Chính phủ cần ưu tiên cao cho việc từng bước giảm giá VND và chú trọng đúng mức tới xu thế và mức tỷ giá hiệu dụng thực.
Đó là một trọng tâm khuyến nghị trong bản thảo luận chính sách số 4 của Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard, vừa chuyển tới Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu mới về những phân tích chính sách độc lập thường kỳ.
Và một trong 7 khuyến nghị mà nhóm nghiên cứu của Harvard đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam, cũng là một lựa chọn của chính sách, là cần từng bước giảm giá VND.
“VND đã trở nên quá mạnh”
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, tỷ giá hiệu dụng thực của VND đã giảm trong giai đoạn 2000 - 2003, nhưng sau đó đã tăng gần như liên tục (trừ một giai đoạn giảm giá ngắn trong nửa đầu 2006) khi lạm phát bắt đầu tăng nhanh.
Tỷ giá thực của VND vào thời điểm tháng 9/2008 đã cao hơn mức của tháng 1/2000 là 20% và cao hơn mức của tháng 1/2004 tới 33%. Và xu hướng tăng tỷ giá thực của VND vẫn được duy trì trong 3 tháng cuối năm 2008 do đồng USD mạnh lên so với đồng EURO, cũng như với hầu hết các đồng tiền của châu Á.
Báo cáo nghiên cứu của Harvard nhận định, trong hai năm 2007 và 2008, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài. Đồng thời, để đạt mục tiêu tăng trưởng cao, Chính phủ đã không ngừng đẩy mạnh đầu tư. Hệ quả của hai sự kiện này làm thâm hụt ngân sách nặng nề, thâm hụt thương mại kỷ lục và nền kinh tế trở nên quá nóng.
Một nguyên nhân của tình trạng thâm hụt thương mại là VND đã trở nên quá mạnh so với các đồng tiền của các đối tác thương mại chủ yếu.
Khi đồng tiền được định giá cao, nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn còn xuất khẩu trở nên đắt hơn, do vậy lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sẽ giảm. Là một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và ngày càng mở cửa đối với nhập khẩu nên Việt Nam không thể giữ tỷ giá thực của VND quá cao trong một thời gian quá dài, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm toàn cầu năm 2009.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cho rằng thâm hụt thương mại của Việt Nam hiện rất cao. Việc đơn giản tăng chi tiêu của Chính phủ trong khi giữ tỷ giá cố định sẽ nới rộng thâm hụt thương mại trong khi không giúp kích cầu nội địa đáng kể. Không những thế, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chịu rủi ro cạnh tranh hàng nhập khẩu rẻ tiền.
Với những phân tích trên, Bản thảo luận chính sách số 4 của nhóm nghiên cứu Harvard cho rằng Chính phủ cần ưu tiên cao cho việc từng bước giảm giá VND và chú trọng đúng mức tới xu thế và mức tỷ giá hiệu dụng thực.
Nhóm nghiên cứu cũng đánh giá quyết định tăng thêm 3% tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng vào ngày 25/12/2008 (thực chất là giảm giá VND 3%) của Ngân hàng Nhà nước là một sự khởi đầu đúng hướng. Trên thực tế, thị trường cũng đã phản ánh tích cực. Tỷ giá kỳ hạn không chuyển giao (NDF) của VND đã giảm sau sự điều chỉnh của chính sách. Tuy nhiên, thực tế tỷ giá trên thị trường ngay lập tức đụng trần cho thấy sẽ cần thêm những đợt nới rộng tỷ giá tiếp theo.
Cảnh giác những rủi ro
Chính sách giảm giá VND có kiểm soát là cần thiết, nhưng nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số rủi ro liên quan mà Chính phủ Việt Nam cần cảnh giác nếu theo đuổi chính sách đó.
Cụ thể, rủi ro thứ nhất là nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã vay USD từ các ngân hàng trong nước và quốc tế. Nếu nguồn thu nhập chính của họ bằng VND và phải trả nợ bằng USD thì khi tỷ giá USD/VND tăng, lợi nhuận của các doanh nghiệp này sẽ giảm, thậm chí một số trường hợp có thể không trả được nợ và ngân hàng phải chịu thêm nợ xấu.
Vì lý do trên, khuyến nghị đưa ra là việc điều chỉnh tỷ giá nên tiến hành theo từng bước và Ngân hàng Nhà nước phải phát đi những tín hiệu rõ ràng để những người đi vay ngoại tệ có thời gian điều chỉnh.
Thứ hai là rủi ro về lạm phát. Giá nội tệ giảm làm hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn một cách tương đối. Khi đó, nếu các nhà sản xuất trong nước có thể cung cấp những hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu với giá rẻ hơn thì người tiêu dùng và doanh nghiệp sẽ chuyển sang mua những hàng hóa này. Tuy nhiên, thực tế là nhiều hàng hóa mà người dân và doanh nghiệp cần trong nước lại chưa sản xuất được, hay sản xuất được nhưng có mức giá cao hơn hay chất lượng thấp hơn hàng nhập khẩu. Kết quả là nền kinh tế sẽ “nhập khẩu” lạm phát từ bên ngoài khi VND giảm giá.
“Đây là một nguyên nhân khiến cho việc tăng thâm hụt ngân sách tại thời điểm này trở nên rất rủi ro. Nếu áp lực lạm phát cao trở lại, việc giảm giá VND sẽ dẫn tới tình trạng leo thang giá cả. Đối với một nền kinh tế nhỏ và mở như Việt Nam, chính sách giảm giá đồng nội tệ tỏ ra hợp lý hơn việc gia tăng thâm hụt ngân sách. Nếu hai điều này xẩy ra cùng một lúc thì lạm phát sẽ còn tăng nhanh hơn nữa”, nhóm nghiên cứu nhận định.
Thứ ba, tỷ giá USD/VND có thể bị “tăng quá mức” khi người trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào khả năng quản lý cung tiền của các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ. Người dân và doanh nghiệp sẽ tranh mua ngoại tệ mạnh hay vàng khi đồng nội tệ bắt đầu mất giá.
Nếu tính huống đó xẩy ra, hệ quả mà nhóm nghiên cứu đề cập tới là “trong nỗ lực bảo toàn tài sản, người ta có thể chấp nhập trả một mức giá cao bất thường miễn là mua được ngoại tệ, và không một mức lãi suất nào đủ cao để kéo họ trở lại với đồng nội tệ”.
Với lý do trên, Chính phủ không thể vừa cắt lãi suất, vừa giảm giá đồng tiền. Người tiết kiệm VND phải được hưởng lãi suất cao hơn để bù đắp cho việc VND mất giá. Nói cách khác, tốc độ giảm giá hàng năm của VND phải phản ánh sự khác biệt về lãi suất tiết kiệm giữa USD và VND.
1. Từng bước giảm giá VND. Việc giảm giá VND có kiểm soát so với đồng tiền của các đối tác thương mại chính phải được tiến hành song song với việc kiểm soát chặt thâm hụt ngân sách và theo dõi cẩn thận lãi suất tiết kiệm. Ngân hàng Nhà nước phải truyền tải thông điệp chính sách một cách rõ ràng và thuyết phục tới thị trường và công chúng, giúp họ có đủ thời gian và thông tin để điều chỉnh hoạt động của mình.
2. Xem xét lại ưu tiên của đầu tư công. Chương trình đầu tư công của Việt Nam phải tập trung vào những dự án thâm dụng lao động, không đòi hỏi phải nhập khẩu nhiều và giúp khắc phục những ách tắc chủ yếu trong nền kinh tế. Chính phủ nên tạm dừng các dự án thâm dụng vốn và phải nhập khẩu nhiều. Các dự án không có luận chứng kinh tế thuyết phục như lọc dầu và tổ hợp cảng cần phải hủy bỏ.
3. Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công với nhiệm vụ đề xuất những cải cách thủ tục liên quan tới quá trình hoạch định, xét duyệt, thực hiện và đánh giá các dự án đầu tư công để giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đồng thời vẫn đảm bảo được tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và tỷ suất lợi nhuận nhất định.
4. Ngừng cấp phép thành lập mới ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm và đánh giá lại cơ cấu sở hữu của những tổ chức tài chính hiện hữu. Đây là lúc phải củng cố hệ thống tài chính bằng cách loại trừ việc cho vay trong nội bộ tập đoàn và các hành động tập trung quyền lực tài chính và rủi ro vào trong tay một vài tập đoàn lớn của nhà nước.
5. Không nên tăng thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam hiện đã ở mức rất cao. Điều này có nghĩa là dư địa cho việc thực hiện gói kích thích thông qua chính sách tài khóa là rất hạn chế và việc cho phép gia tăng thâm hụt ngân sách đồng nghĩa với mức rủi ro cao hơn đối với nền kinh tế.
6. Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng. Lạm phát đã giảm nhưng chưa hoàn toàn biến mất vì những nguyên nhân có tính cơ cấu của nó chưa bị loại trừ. Việc tăng tín dụng đột ngột sẽ làm lạm phát quay trở lại và khuyến khích nhập khẩu trong khi nguồn ngoại tệ để tài trợ nhập khẩu của Việt Nam ở thời điểm này hạn chế. Tín dụng tăng trưởng nhanh cũng có thể sẽ dẫn đến bong bóng tài sản, ảnh hưởng tới sự bền vững của tăng trưởng. Tất cả những phân tích này cùng dẫn đến một kết luận là dư địa cho việc thực hiện gói kích thích thông qua chính sách tiền tệ ở Việt Nam cũng khá hạn chế.
7. Cần phải khuyến khích cạnh tranh. Các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, sẽ không thể có năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu như không được tập dượt cạnh tranh trên thị trường nội địa. Những khó khăn kinh tế hiện thời không thể bị lợi dụng để quay trở lại những chính sách phi cạnh tranh, chẳng hạn như hạn chế đấu thầu cạnh tranh và tăng quyền chỉ định định thầu cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đó là một trọng tâm khuyến nghị trong bản thảo luận chính sách số 4 của Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard, vừa chuyển tới Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu mới về những phân tích chính sách độc lập thường kỳ.
Và một trong 7 khuyến nghị mà nhóm nghiên cứu của Harvard đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam, cũng là một lựa chọn của chính sách, là cần từng bước giảm giá VND.
“VND đã trở nên quá mạnh”
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, tỷ giá hiệu dụng thực của VND đã giảm trong giai đoạn 2000 - 2003, nhưng sau đó đã tăng gần như liên tục (trừ một giai đoạn giảm giá ngắn trong nửa đầu 2006) khi lạm phát bắt đầu tăng nhanh.
Tỷ giá thực của VND vào thời điểm tháng 9/2008 đã cao hơn mức của tháng 1/2000 là 20% và cao hơn mức của tháng 1/2004 tới 33%. Và xu hướng tăng tỷ giá thực của VND vẫn được duy trì trong 3 tháng cuối năm 2008 do đồng USD mạnh lên so với đồng EURO, cũng như với hầu hết các đồng tiền của châu Á.
Báo cáo nghiên cứu của Harvard nhận định, trong hai năm 2007 và 2008, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài. Đồng thời, để đạt mục tiêu tăng trưởng cao, Chính phủ đã không ngừng đẩy mạnh đầu tư. Hệ quả của hai sự kiện này làm thâm hụt ngân sách nặng nề, thâm hụt thương mại kỷ lục và nền kinh tế trở nên quá nóng.
Một nguyên nhân của tình trạng thâm hụt thương mại là VND đã trở nên quá mạnh so với các đồng tiền của các đối tác thương mại chủ yếu.
Khi đồng tiền được định giá cao, nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn còn xuất khẩu trở nên đắt hơn, do vậy lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sẽ giảm. Là một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và ngày càng mở cửa đối với nhập khẩu nên Việt Nam không thể giữ tỷ giá thực của VND quá cao trong một thời gian quá dài, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm toàn cầu năm 2009.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cho rằng thâm hụt thương mại của Việt Nam hiện rất cao. Việc đơn giản tăng chi tiêu của Chính phủ trong khi giữ tỷ giá cố định sẽ nới rộng thâm hụt thương mại trong khi không giúp kích cầu nội địa đáng kể. Không những thế, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chịu rủi ro cạnh tranh hàng nhập khẩu rẻ tiền.
Với những phân tích trên, Bản thảo luận chính sách số 4 của nhóm nghiên cứu Harvard cho rằng Chính phủ cần ưu tiên cao cho việc từng bước giảm giá VND và chú trọng đúng mức tới xu thế và mức tỷ giá hiệu dụng thực.
Nhóm nghiên cứu cũng đánh giá quyết định tăng thêm 3% tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng vào ngày 25/12/2008 (thực chất là giảm giá VND 3%) của Ngân hàng Nhà nước là một sự khởi đầu đúng hướng. Trên thực tế, thị trường cũng đã phản ánh tích cực. Tỷ giá kỳ hạn không chuyển giao (NDF) của VND đã giảm sau sự điều chỉnh của chính sách. Tuy nhiên, thực tế tỷ giá trên thị trường ngay lập tức đụng trần cho thấy sẽ cần thêm những đợt nới rộng tỷ giá tiếp theo.
Cảnh giác những rủi ro
Chính sách giảm giá VND có kiểm soát là cần thiết, nhưng nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số rủi ro liên quan mà Chính phủ Việt Nam cần cảnh giác nếu theo đuổi chính sách đó.
Cụ thể, rủi ro thứ nhất là nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã vay USD từ các ngân hàng trong nước và quốc tế. Nếu nguồn thu nhập chính của họ bằng VND và phải trả nợ bằng USD thì khi tỷ giá USD/VND tăng, lợi nhuận của các doanh nghiệp này sẽ giảm, thậm chí một số trường hợp có thể không trả được nợ và ngân hàng phải chịu thêm nợ xấu.
Vì lý do trên, khuyến nghị đưa ra là việc điều chỉnh tỷ giá nên tiến hành theo từng bước và Ngân hàng Nhà nước phải phát đi những tín hiệu rõ ràng để những người đi vay ngoại tệ có thời gian điều chỉnh.
Thứ hai là rủi ro về lạm phát. Giá nội tệ giảm làm hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn một cách tương đối. Khi đó, nếu các nhà sản xuất trong nước có thể cung cấp những hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu với giá rẻ hơn thì người tiêu dùng và doanh nghiệp sẽ chuyển sang mua những hàng hóa này. Tuy nhiên, thực tế là nhiều hàng hóa mà người dân và doanh nghiệp cần trong nước lại chưa sản xuất được, hay sản xuất được nhưng có mức giá cao hơn hay chất lượng thấp hơn hàng nhập khẩu. Kết quả là nền kinh tế sẽ “nhập khẩu” lạm phát từ bên ngoài khi VND giảm giá.
“Đây là một nguyên nhân khiến cho việc tăng thâm hụt ngân sách tại thời điểm này trở nên rất rủi ro. Nếu áp lực lạm phát cao trở lại, việc giảm giá VND sẽ dẫn tới tình trạng leo thang giá cả. Đối với một nền kinh tế nhỏ và mở như Việt Nam, chính sách giảm giá đồng nội tệ tỏ ra hợp lý hơn việc gia tăng thâm hụt ngân sách. Nếu hai điều này xẩy ra cùng một lúc thì lạm phát sẽ còn tăng nhanh hơn nữa”, nhóm nghiên cứu nhận định.
Thứ ba, tỷ giá USD/VND có thể bị “tăng quá mức” khi người trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào khả năng quản lý cung tiền của các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ. Người dân và doanh nghiệp sẽ tranh mua ngoại tệ mạnh hay vàng khi đồng nội tệ bắt đầu mất giá.
Nếu tính huống đó xẩy ra, hệ quả mà nhóm nghiên cứu đề cập tới là “trong nỗ lực bảo toàn tài sản, người ta có thể chấp nhập trả một mức giá cao bất thường miễn là mua được ngoại tệ, và không một mức lãi suất nào đủ cao để kéo họ trở lại với đồng nội tệ”.
Với lý do trên, Chính phủ không thể vừa cắt lãi suất, vừa giảm giá đồng tiền. Người tiết kiệm VND phải được hưởng lãi suất cao hơn để bù đắp cho việc VND mất giá. Nói cách khác, tốc độ giảm giá hàng năm của VND phải phản ánh sự khác biệt về lãi suất tiết kiệm giữa USD và VND.
7 khuyến nghị của bản thảo luận chính sách số 4
1. Từng bước giảm giá VND. Việc giảm giá VND có kiểm soát so với đồng tiền của các đối tác thương mại chính phải được tiến hành song song với việc kiểm soát chặt thâm hụt ngân sách và theo dõi cẩn thận lãi suất tiết kiệm. Ngân hàng Nhà nước phải truyền tải thông điệp chính sách một cách rõ ràng và thuyết phục tới thị trường và công chúng, giúp họ có đủ thời gian và thông tin để điều chỉnh hoạt động của mình.
2. Xem xét lại ưu tiên của đầu tư công. Chương trình đầu tư công của Việt Nam phải tập trung vào những dự án thâm dụng lao động, không đòi hỏi phải nhập khẩu nhiều và giúp khắc phục những ách tắc chủ yếu trong nền kinh tế. Chính phủ nên tạm dừng các dự án thâm dụng vốn và phải nhập khẩu nhiều. Các dự án không có luận chứng kinh tế thuyết phục như lọc dầu và tổ hợp cảng cần phải hủy bỏ.
3. Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công với nhiệm vụ đề xuất những cải cách thủ tục liên quan tới quá trình hoạch định, xét duyệt, thực hiện và đánh giá các dự án đầu tư công để giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đồng thời vẫn đảm bảo được tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và tỷ suất lợi nhuận nhất định.
4. Ngừng cấp phép thành lập mới ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm và đánh giá lại cơ cấu sở hữu của những tổ chức tài chính hiện hữu. Đây là lúc phải củng cố hệ thống tài chính bằng cách loại trừ việc cho vay trong nội bộ tập đoàn và các hành động tập trung quyền lực tài chính và rủi ro vào trong tay một vài tập đoàn lớn của nhà nước.
5. Không nên tăng thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam hiện đã ở mức rất cao. Điều này có nghĩa là dư địa cho việc thực hiện gói kích thích thông qua chính sách tài khóa là rất hạn chế và việc cho phép gia tăng thâm hụt ngân sách đồng nghĩa với mức rủi ro cao hơn đối với nền kinh tế.
6. Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng. Lạm phát đã giảm nhưng chưa hoàn toàn biến mất vì những nguyên nhân có tính cơ cấu của nó chưa bị loại trừ. Việc tăng tín dụng đột ngột sẽ làm lạm phát quay trở lại và khuyến khích nhập khẩu trong khi nguồn ngoại tệ để tài trợ nhập khẩu của Việt Nam ở thời điểm này hạn chế. Tín dụng tăng trưởng nhanh cũng có thể sẽ dẫn đến bong bóng tài sản, ảnh hưởng tới sự bền vững của tăng trưởng. Tất cả những phân tích này cùng dẫn đến một kết luận là dư địa cho việc thực hiện gói kích thích thông qua chính sách tiền tệ ở Việt Nam cũng khá hạn chế.
7. Cần phải khuyến khích cạnh tranh. Các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, sẽ không thể có năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu như không được tập dượt cạnh tranh trên thị trường nội địa. Những khó khăn kinh tế hiện thời không thể bị lợi dụng để quay trở lại những chính sách phi cạnh tranh, chẳng hạn như hạn chế đấu thầu cạnh tranh và tăng quyền chỉ định định thầu cho các doanh nghiệp nhà nước.