IMF: “Nhà chức trách Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể”
Theo IMF, Việt Nam đã lấy lại được sự ổn định kinh tế vĩ mô trong năm qua
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa công bố đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam với những điểm khá tích cực.
Theo IMF, Việt Nam đã lấy lại được sự ổn định kinh tế vĩ mô trong năm qua. Xuất khẩu đang tiến triển tốt, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Nhưng khu vực trong nước, mặc dù đã được cải thiện, vẫn chưa tìm được một nền tảng vững chắc bởi một số yếu tố, bao gồm năng suất thấp, cấu trúc phân bổ nguồn lực, bảng cân đối ngân hàng gặp vấn đề và một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Tăng trưởng tín dụng thực còn ở mức khiêm tốn, chủ yếu tập trung ở các khu vực hướng về xuất khẩu và nông nghiệp. Lạm phát chung đã giảm đáng kể, nhưng vẫn còn áp lực. Thu ngân sách trong nước và thu liên quan tới nhập khẩu đã có phần yếu đi trong những tháng gần đây. Thặng dư tài khoản vãng lai tăng mạnh lên 9,1 tỷ USD trong năm 2012 từ mức 0,2 tỷ USD trong năm 2011, do nhập khẩu giảm và xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ.
Tỷ giá hối đoái đã được ổn định, và tổng dự trữ quốc tế đã tăng lên hơn gấp đôi vào tháng 2/2013 so với cuối năm 2011, mặc dù vẫn còn ở mức chưa đủ khoảng hai tháng rưỡi nhập khẩu. Về điểm này, được biết hiện vẫn còn khác biệt về cách tính giữa IMF với cơ quan chuyên trách của Việt Nam.
Còn trong hai năm tới, IMF dự kiến thặng dư tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao và luồng vốn FDI vẫn mạnh mẽ, hỗ trợ cho dự trữ quốc tế.
Ở bối cảnh chung, bản kết luận viết: “Các nhà chức trách đã có những tiến bộ đáng kể trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế rủi ro trong khu vực ngân hàng và thúc đẩy cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước”.
Thị trường tài chính được IMF nhấn mạnh ở sự bình ổn trở lại, sau khi Ngân hàng Nhà nước cung ứng thanh khoản và tạo điều kiện để hợp nhất một số ngân hàng nhỏ, yếu kém trong hai năm qua. Đáng chú ý là tổ chức quốc tế này cũng đồng quan điểm về việc giảm các rủi ro trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng bằng việc áp dụng biện pháp để dừng các hoạt động cho vay và nhận tiền gửi bằng vàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã đề ra một kế hoạch tái cơ cấu tổng thể và yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải thoái vốn khỏi các tài sản nằm ngoài hoạt động kinh doanh chính, làm rõ các kênh báo cáo, và cải thiện công tác kiểm soát nội bộ và báo cáo tài chính. Dự kiến khoảng 1.200 doanh nghiệp nhà nước sẽ được tái cơ cấu, trong đó có một số doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ hay mới chỉ đạt được ở mức hòa vốn.
Chiến lược cải cách giai đoạn 2011-2015 tập trung vào việc giữ lại quyền sở hữu toàn bộ đối với khoảng 50% doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực công ích hay có lợi ích chiến lược, trong đó một số doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền đáng kể. Khoảng 43% doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa, và số còn lại sẽ được tái cấu trúc, bán hay thanh lý.
Tuy nhiên, theo IMF, khu vực tài chính và doanh nghiệp nhà nước vẫn là nguồn rủi ro chính. Do kết quả của các chính sách trước đây, một phần hệ thống ngân hàng bị thiếu vốn, không đủ trích lập dự phòng, và lợi nhuận thấp. Hơn nữa, hiện tượng sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng như giữa ngân hàng và doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm và nỗ lực của Chính phủ nhằm giải quyết và ngăn ngừa rủi ro lan truyền.
Tuy nhiên, bản kết luận nhấn mạnh rằng, những hạn chế về số liệu, khuôn khổ pháp lý và công tác thanh tra đã cản trở nhận thức về tình trạng thực sự của hệ thống tài chính. Doanh nghiệp nhà nước chiếm ưu thế trong các ngành quan trọng, và xét về tổng thể có biên độ lợi nhuận cao mặc dù tình trạng tài chính thực tế của họ vẫn chưa được công khai.
Về kết luận của các cán bộ trực tiếp thực hiện đợt tham khảo, các giám đốc điều hành cho biết về cơ bản đồng ý với các đánh giá trên. Họ hoan nghênh Chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong ổn định nền kinh tế trong vòng hai năm qua, nhưng lưu ý rằng Việt Nam sẽ phải đối mặt với các rủi ro lớn trong và ngoài nước trong giai đoạn tới.
Các giám đốc điều hành của IMF khuyến khích Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tập trung đạt được lạm phát thấp và ổn định, hỗ trợ neo tỷ giá, và tăng dự trữ ngoại hối. Và IMF ủng hộ việc tăng tính độc lập trong hoạt động và đơn giản hóa mục tiêu cho Ngân hàng Nhà nước.
Hiện tại, IMF cho rằng Chính phủ Việt Nam đang làm nhiều việc để giải quyết các yếu kém trong khu vực ngân hàng. Tuy nhiên, các vấn đề vẫn còn tồn tại được lưu ý và trở nên lớn hơn khi kết hợp với những thiếu hụt về thông tin.
Để hệ thống ngân hàng khỏe mạnh trở lại, IMF khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần thực hiện các biện pháp để cấp vốn bổ sung cho các ngân hàng, củng cố giám sát và quản lý ngân hàng, và thực hiện kế hoạch xử lý nợ xấu. Thêm nữa, cần tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố phân tích rủi ro tín dụng và quản trị bằng cách tăng cường tính minh bạch.
Về cải cách doanh nghiệp nhà nước, IMF nhấn mạnh sự cần thiết của việc thành lập một ủy ban chỉ đạo cấp cao nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu.
“Cần đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, củng cố trách nhiệm giải trình và kỷ luật tài chính. Các giám đốc điều hành khuyến khích việc tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đảm bảo tiếp cận vốn một cách công bằng, và tạo điều kiện cạnh tranh hơn trong các khu vực do nhà nước chi phối, bao gồm cơ sở hạ tầng”, bản kết luận viết.
Theo IMF, Việt Nam đã lấy lại được sự ổn định kinh tế vĩ mô trong năm qua. Xuất khẩu đang tiến triển tốt, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Nhưng khu vực trong nước, mặc dù đã được cải thiện, vẫn chưa tìm được một nền tảng vững chắc bởi một số yếu tố, bao gồm năng suất thấp, cấu trúc phân bổ nguồn lực, bảng cân đối ngân hàng gặp vấn đề và một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Tăng trưởng tín dụng thực còn ở mức khiêm tốn, chủ yếu tập trung ở các khu vực hướng về xuất khẩu và nông nghiệp. Lạm phát chung đã giảm đáng kể, nhưng vẫn còn áp lực. Thu ngân sách trong nước và thu liên quan tới nhập khẩu đã có phần yếu đi trong những tháng gần đây. Thặng dư tài khoản vãng lai tăng mạnh lên 9,1 tỷ USD trong năm 2012 từ mức 0,2 tỷ USD trong năm 2011, do nhập khẩu giảm và xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ.
Tỷ giá hối đoái đã được ổn định, và tổng dự trữ quốc tế đã tăng lên hơn gấp đôi vào tháng 2/2013 so với cuối năm 2011, mặc dù vẫn còn ở mức chưa đủ khoảng hai tháng rưỡi nhập khẩu. Về điểm này, được biết hiện vẫn còn khác biệt về cách tính giữa IMF với cơ quan chuyên trách của Việt Nam.
Còn trong hai năm tới, IMF dự kiến thặng dư tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao và luồng vốn FDI vẫn mạnh mẽ, hỗ trợ cho dự trữ quốc tế.
Ở bối cảnh chung, bản kết luận viết: “Các nhà chức trách đã có những tiến bộ đáng kể trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế rủi ro trong khu vực ngân hàng và thúc đẩy cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước”.
Thị trường tài chính được IMF nhấn mạnh ở sự bình ổn trở lại, sau khi Ngân hàng Nhà nước cung ứng thanh khoản và tạo điều kiện để hợp nhất một số ngân hàng nhỏ, yếu kém trong hai năm qua. Đáng chú ý là tổ chức quốc tế này cũng đồng quan điểm về việc giảm các rủi ro trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng bằng việc áp dụng biện pháp để dừng các hoạt động cho vay và nhận tiền gửi bằng vàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã đề ra một kế hoạch tái cơ cấu tổng thể và yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải thoái vốn khỏi các tài sản nằm ngoài hoạt động kinh doanh chính, làm rõ các kênh báo cáo, và cải thiện công tác kiểm soát nội bộ và báo cáo tài chính. Dự kiến khoảng 1.200 doanh nghiệp nhà nước sẽ được tái cơ cấu, trong đó có một số doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ hay mới chỉ đạt được ở mức hòa vốn.
Chiến lược cải cách giai đoạn 2011-2015 tập trung vào việc giữ lại quyền sở hữu toàn bộ đối với khoảng 50% doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực công ích hay có lợi ích chiến lược, trong đó một số doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền đáng kể. Khoảng 43% doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa, và số còn lại sẽ được tái cấu trúc, bán hay thanh lý.
Tuy nhiên, theo IMF, khu vực tài chính và doanh nghiệp nhà nước vẫn là nguồn rủi ro chính. Do kết quả của các chính sách trước đây, một phần hệ thống ngân hàng bị thiếu vốn, không đủ trích lập dự phòng, và lợi nhuận thấp. Hơn nữa, hiện tượng sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng như giữa ngân hàng và doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm và nỗ lực của Chính phủ nhằm giải quyết và ngăn ngừa rủi ro lan truyền.
Tuy nhiên, bản kết luận nhấn mạnh rằng, những hạn chế về số liệu, khuôn khổ pháp lý và công tác thanh tra đã cản trở nhận thức về tình trạng thực sự của hệ thống tài chính. Doanh nghiệp nhà nước chiếm ưu thế trong các ngành quan trọng, và xét về tổng thể có biên độ lợi nhuận cao mặc dù tình trạng tài chính thực tế của họ vẫn chưa được công khai.
Về kết luận của các cán bộ trực tiếp thực hiện đợt tham khảo, các giám đốc điều hành cho biết về cơ bản đồng ý với các đánh giá trên. Họ hoan nghênh Chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong ổn định nền kinh tế trong vòng hai năm qua, nhưng lưu ý rằng Việt Nam sẽ phải đối mặt với các rủi ro lớn trong và ngoài nước trong giai đoạn tới.
Các giám đốc điều hành của IMF khuyến khích Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tập trung đạt được lạm phát thấp và ổn định, hỗ trợ neo tỷ giá, và tăng dự trữ ngoại hối. Và IMF ủng hộ việc tăng tính độc lập trong hoạt động và đơn giản hóa mục tiêu cho Ngân hàng Nhà nước.
Hiện tại, IMF cho rằng Chính phủ Việt Nam đang làm nhiều việc để giải quyết các yếu kém trong khu vực ngân hàng. Tuy nhiên, các vấn đề vẫn còn tồn tại được lưu ý và trở nên lớn hơn khi kết hợp với những thiếu hụt về thông tin.
Để hệ thống ngân hàng khỏe mạnh trở lại, IMF khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần thực hiện các biện pháp để cấp vốn bổ sung cho các ngân hàng, củng cố giám sát và quản lý ngân hàng, và thực hiện kế hoạch xử lý nợ xấu. Thêm nữa, cần tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố phân tích rủi ro tín dụng và quản trị bằng cách tăng cường tính minh bạch.
Về cải cách doanh nghiệp nhà nước, IMF nhấn mạnh sự cần thiết của việc thành lập một ủy ban chỉ đạo cấp cao nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu.
“Cần đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, củng cố trách nhiệm giải trình và kỷ luật tài chính. Các giám đốc điều hành khuyến khích việc tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đảm bảo tiếp cận vốn một cách công bằng, và tạo điều kiện cạnh tranh hơn trong các khu vực do nhà nước chi phối, bao gồm cơ sở hạ tầng”, bản kết luận viết.