Luật sư không tố giác tội phạm: Trách nhiệm hình sự sẽ hẹp hơn
Phạm vi được miễn trừ trách nhiệm hình sự của người bào chữa khi không tố giác tội phạm là thân chủ là vấn đề gây tranh cãi quyết liệt
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và cấu tạo các điều luật theo hướng thu theo hướng thu hẹp hơn phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi không tố giác tội phạm - Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu trao đổi với báo chí trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 được thông qua vào chiều 20/6.
Phạm vi được miễn trừ trách nhiệm hình sự của người bào chữa khi không tố giác tội phạm là thân chủ là vấn đề gây tranh cãi quyết liệt trong nhiều phiên thảo luận về sửa Bộ luật Hình sự.
Với dự thảo luật mới nhất, sau khi thu hẹp như lời Phó chủ tịch, người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa.
Tại báo cáo tiếp thu, giải trình mới được gửi đến các vị đại biểu, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tập hợp đến 4 loại ý kiến khác nhau về sửa đổi, bổ sung điều 19 - không tố giác tội phạm - của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong quá trình chỉnh lý dự thảo luật, , Ban thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị 2 phương án.
Phương án 1: chỉ quy định trách nhiệm hình sự của người bào chữa trong trường hợp “không tiết lộ thông tin về tội phạm do chính người mà mình bào chữa thực hiện đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc), Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), Điều 112 (Tội bạo loạn), Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) và Điều 123 (Tội giết người) khi có căn cứ rõ ràng cho thấy tội phạm đó đang thực hiện hoặc đang chuẩn bị thực hiện mà cần thiết phải ngăn chặn hậu quả xảy ra”.
Phương án 2: đề nghị bỏ khoản 3 điều 19 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, về nguyên tắc, với tư cách là công dân thì người bào chữa có nghĩa vụ bình đẳng như mọi công dân khác trong việc tố giác tội phạm. Nguyên tắc này đã được Hiến pháp ghi nhận “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” và được thể chế hóa trong các luật về tư pháp từ trước đến nay. Điều 4 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”; Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “… cá nhân có nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm..
Khẳng định từ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là đã cân nhắc đặc thù của hoạt động bào chữa, mối quan hệ giữa người bào chữa với người được bào chữa; nhưng việc Nhà nước không miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng nên trong một số trường hợp người bào chữa vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của chính người mà mình bào chữa.
Mặt khác, vấn đề này cũng đã được Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015. Kết quả cho thấy, đa số ý kiến nhân dân không đồng ý miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa.
Do đây là vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội và dư luận xã hội quan tâm nên sau khi báo cáo cơ quan có thẩm quyền, cân nhắc kỹ nhiều mặt, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho tiếp thu một phần ý kiến của đại biểu Quốc hội, của Ban thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam để chỉnh lý khoản 3 điều 19 của Bộ luật Hình sự 2015 theo hướng thu hẹp hơn phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi không tố giác tội phạm.
Cụ thể:
“Điều 19. Không tố giác tội phạm
1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa”.