Nhiều tiếng nói lo lắng cho tiến độ cổ phần hóa
Các chuyên gia trong và ngoài nước có chung sự lo lắng về tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước tham gia Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam 2013 đều có chung sự lo lắng về tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm chạp hiện nay.
Theo ông Dominic Scriven, Trưởng nhóm công tác thị trường vốn, cho rằng đây là thời điểm Việt Nam cần cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước ở các ngành không nhạy cảm đối với an ninh quốc gia.
Theo chuyên gia này, đây là thời điểm ngân sách nhà nước đang hạn hẹp trong khi nhu cầu chi tiêu, đầu tư công vẫn còn rất lớn. Nguồn thu từ thuế giảm do kinh tế khó khăn và các lộ trình giảm thuế nhập khẩu khi tham gia WTO.
Trong khi đó, tổng giá trị thị trường của phần vốn nhà nước tại 11 công ty trong nhóm 20 công ty lớn nhất niêm yết trên sàn chứng khoán Tp.HCM (theo tiêu chí vốn hóa) là 14,8 tỷ USD, chỉ chiếm 38% vốn hóa của cả sàn này, trong đó riêng phần sở hữu trên 50% của nhóm 11 công ty này có giá trị 4,4 tỷ USD.
“Việc bán một phần các doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bù đắp được ngân sách của nhà nước trong giai đoạn khó khăn này, thay vì đề xuất giảm lương tối thiểu hay tận thu những nguồn khác. Doanh nghiệp sau khi bán vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, vẫn đóng thuế, vẫn thuê nguồn nhân lực Việt Nam”, ông Dominic Scriven phân tích.
Nhóm công tác thị trường vốn nhận thấy hiện nhiều ngành nghề của các công ty mà hiện tại nhà nước nắm giữ tỉ lệ lớn không phải các ngành nhạy cảm, chẳng hạn ngành hàng tiêu dùng, sản xuất phân bón.
Chính vì vậy, đây là thời điểm để tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài, giảm tỉ lệ sở hữu Nhà nước bằng việc bán cổ phần Nhà nước trong các công ty cổ phần thuộc diện không nhạy cảm.
Nhóm kiến nghị rằng, trước mắt có thể giảm bớt sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết về dưới 50% nhưng vẫn trên 35% và thời gian sau đó có thể giảm xuống thêm. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các công ty 100% vốn Nhà nước cũng như rà soát để giảm bớt danh sách ngành nhạy cảm.
Theo ông Trần Anh Đức, Nhóm Công tác đầu tư và thương mại, với việc doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, tiến trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước rõ ràng đang nhận được một sự quan tâm sâu sắc.
“Tốc độ cổ phần hóa đã giảm mạnh trong những năm vừa qua: từ hơn 800 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm 2004-2005 đã giảm xuống còn 13 doanh nghiệp vào năm 2012. Thực tế này đặt ra câu hỏi lớn về tiến độ cổ phần hóa trong các năm tiếp theo”, ông Đức nhấn mạnh trong báo cáo của nhóm.
Tuy nhiên, không chỉ là số lượng, chuyên gia này lo ngại rằng nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần với việc nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nhưng lại chưa có các quy chế quản trị và giám sát đặc thù.
“Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã hoạt động không hiệu quả và thua lỗ lớn. Thực tế phát sinh yêu cầu phải có một cơ chế giám sát hiệu quả hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ có thể xem xét việc huy động công chúng tham gia giám sát thông qua yêu cầu phải minh bạch các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”, ông viết. Ông cũng gợi ý cần phải ban hành quy chế công bố thông tin về hoạt động của các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, các công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Trong khi đó, ông Steven Winkelman, Chủ tịch Phòng thương mại Mỹ (Amcham) cho rằng, mặc dù Việt Nam đã dần chuyển sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986 và việc cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn thường xuyên được nhắc đến, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam.
“Các thành viên của chúng tôi muốn nhìn thấy rõ hơn sự quyết tâm của Chính phủ trong việc cải cách hệ thống quản lý nhà nước, điều mà rất nhiều nhà phân tích coi là nguyên nhân căn bản của những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay”, ông nói.
“Các nhà đầu tư đang băn khoăn lo lắng liệu tập đoàn nhà nước nào tiếp theo sẽ thất bại từ việc mở rộng hoạt động quá mức hay tập đoàn nào sẽ buộc phải kê các tài sản xấu vào bảng cân đối kế toán. Sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực hiện vẫn còn tiếp tục trong khi đây là thời điểm Việt Nam cần phải có những quyết định sáng suốt hơn về chi tiêu nguồn vốn và chiến lược kinh doanh”, ông nói.
Theo ông Dominic Scriven, Trưởng nhóm công tác thị trường vốn, cho rằng đây là thời điểm Việt Nam cần cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước ở các ngành không nhạy cảm đối với an ninh quốc gia.
Theo chuyên gia này, đây là thời điểm ngân sách nhà nước đang hạn hẹp trong khi nhu cầu chi tiêu, đầu tư công vẫn còn rất lớn. Nguồn thu từ thuế giảm do kinh tế khó khăn và các lộ trình giảm thuế nhập khẩu khi tham gia WTO.
Trong khi đó, tổng giá trị thị trường của phần vốn nhà nước tại 11 công ty trong nhóm 20 công ty lớn nhất niêm yết trên sàn chứng khoán Tp.HCM (theo tiêu chí vốn hóa) là 14,8 tỷ USD, chỉ chiếm 38% vốn hóa của cả sàn này, trong đó riêng phần sở hữu trên 50% của nhóm 11 công ty này có giá trị 4,4 tỷ USD.
“Việc bán một phần các doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bù đắp được ngân sách của nhà nước trong giai đoạn khó khăn này, thay vì đề xuất giảm lương tối thiểu hay tận thu những nguồn khác. Doanh nghiệp sau khi bán vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, vẫn đóng thuế, vẫn thuê nguồn nhân lực Việt Nam”, ông Dominic Scriven phân tích.
Nhóm công tác thị trường vốn nhận thấy hiện nhiều ngành nghề của các công ty mà hiện tại nhà nước nắm giữ tỉ lệ lớn không phải các ngành nhạy cảm, chẳng hạn ngành hàng tiêu dùng, sản xuất phân bón.
Chính vì vậy, đây là thời điểm để tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài, giảm tỉ lệ sở hữu Nhà nước bằng việc bán cổ phần Nhà nước trong các công ty cổ phần thuộc diện không nhạy cảm.
Nhóm kiến nghị rằng, trước mắt có thể giảm bớt sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết về dưới 50% nhưng vẫn trên 35% và thời gian sau đó có thể giảm xuống thêm. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các công ty 100% vốn Nhà nước cũng như rà soát để giảm bớt danh sách ngành nhạy cảm.
Theo ông Trần Anh Đức, Nhóm Công tác đầu tư và thương mại, với việc doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, tiến trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước rõ ràng đang nhận được một sự quan tâm sâu sắc.
“Tốc độ cổ phần hóa đã giảm mạnh trong những năm vừa qua: từ hơn 800 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm 2004-2005 đã giảm xuống còn 13 doanh nghiệp vào năm 2012. Thực tế này đặt ra câu hỏi lớn về tiến độ cổ phần hóa trong các năm tiếp theo”, ông Đức nhấn mạnh trong báo cáo của nhóm.
Tuy nhiên, không chỉ là số lượng, chuyên gia này lo ngại rằng nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần với việc nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nhưng lại chưa có các quy chế quản trị và giám sát đặc thù.
“Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã hoạt động không hiệu quả và thua lỗ lớn. Thực tế phát sinh yêu cầu phải có một cơ chế giám sát hiệu quả hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ có thể xem xét việc huy động công chúng tham gia giám sát thông qua yêu cầu phải minh bạch các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”, ông viết. Ông cũng gợi ý cần phải ban hành quy chế công bố thông tin về hoạt động của các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, các công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Trong khi đó, ông Steven Winkelman, Chủ tịch Phòng thương mại Mỹ (Amcham) cho rằng, mặc dù Việt Nam đã dần chuyển sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986 và việc cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn thường xuyên được nhắc đến, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam.
“Các thành viên của chúng tôi muốn nhìn thấy rõ hơn sự quyết tâm của Chính phủ trong việc cải cách hệ thống quản lý nhà nước, điều mà rất nhiều nhà phân tích coi là nguyên nhân căn bản của những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay”, ông nói.
“Các nhà đầu tư đang băn khoăn lo lắng liệu tập đoàn nhà nước nào tiếp theo sẽ thất bại từ việc mở rộng hoạt động quá mức hay tập đoàn nào sẽ buộc phải kê các tài sản xấu vào bảng cân đối kế toán. Sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực hiện vẫn còn tiếp tục trong khi đây là thời điểm Việt Nam cần phải có những quyết định sáng suốt hơn về chi tiêu nguồn vốn và chiến lược kinh doanh”, ông nói.