09:32 21/10/2008

8 kiến nghị về hệ thống chỉ tiêu kinh tế

Dương Ngọc

Người viết xin có một số ý kiến lạm bàn về hệ thống chỉ tiêu kinh tế đang được Chính phủ trình Quốc hội

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn chưa thấy "đáy" và còn kéo dài chưa biết đến bao giờ - Ảnh: Reuters.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn chưa thấy "đáy" và còn kéo dài chưa biết đến bao giờ - Ảnh: Reuters.
Người viết xin có một số ý kiến lạm bàn về một số vấn đề chung và về hệ thống chỉ tiêu kinh tế đang được Chính phủ trình Quốc hội.

Thứ nhất, về mục tiêu, nên đưa mục tiêu chủ động hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô thành mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Đề xuất này xuất phát từ một số tình hình sau đây.

Một, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu là cuộc khủng hoảng hàng trăm năm mới có một lần; hiện chưa thấy "đáy"; hiện còn kéo dài chưa biết đến bao giờ (có chuyên gia dự đoán 18 tháng, cao hơn gấp đôi các cuộc khủng hoảng của Mỹ gần đây).

Hai, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997- 1998, tuy về địa lý gần nước ta hơn (và lúc đó Việt Nam mới mở cửa tiến ra sân chơi khu vực) và Việt Nam không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng đó, nhưng tác động sau đó cũng không ít.

Xin dẫn ra một số con số. Tốc độ tăng GDP đang từ 8,15% năm 1997, năm 1998 chỉ còn 5,76%, năm 1999 chỉ còn 4,77%, trong đó công nghiệp - xây dựng tương ứng từ 12,63% xuống còn 8,33% và 7,68%; dịch vụ từ 7,14% xuống còn 5,08% và 2,25%.

GDP giá thực tế bị "co lại", nhưng tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đang từ 34,6% GDP xuống còn 32,4% và 32,8%, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm cả về lượng vốn đăng ký và thực hiện (lượng vốn đăng ký năm 1996 là 10.164 triệu USD, nhưng năm 1997 còn 5.591 triệu USD, năm 1998 còn 5.100 triệu USD, năm 1999 còn 2.565 triệu USD; lượng vốn thực hiện năm 1997 là 3.115 triệu USD, nhưng năm 1998 chỉ còn 2.367 triệu USD, năm 1999 chỉ còn 2.414 triệu USD).

Xin dẫn thêm những con số năm nay để có thể tham khảo. Tăng trưởng GDP quý 2 và quý 3 thấp hơn quý 1 (quý 1 tăng 7,38%, quý 2 tăng 5,85%, quý 3 tăng 6,55%) và 9 tháng năm nay thấp hơn cùng kỳ các năm trước (9 tháng của năm nay tăng 6,52%, trong khi của năm 2007 là 8,16%, của năm 2006 là 7,84%,...).

Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tuy tăng 39% so với cùng kỳ, nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá và tái xuất thì thấp hơn nhiều. Xuất khẩu trong mấy tháng nay có xu hướng tháng sau giảm so với tháng trước và đang đứng trước tác động kép: vừa về lượng, vừa về giá, vừa về thị trường.

Nhu cầu nhập khẩu của các bạn hàng giảm, nhất là các thị trường lớn trực tiếp hoặc bị ảnh hưởng của khủng hoảng như Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Australia, Nhật Bản,...

Giá xuất khẩu 9 tháng năm 2008 tăng rất cao, chỉ với 8 mặt hàng (dầu thô, gạo, than đá, cao su, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, chè) đã làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng thêm 6,7 tỷ USD (hay tăng 14%). Nếu giá hàng hóa xuất khẩu tiếp tục giảm thì sẽ kéo tốc độ tăng chung xuống.

Thứ hai, với tầm quan trọng của mục tiêu chủ động hạn chế khủng hoảng và ổn định kinh tế vĩ mô như trên, nên cần bổ sung thêm ba chỉ tiêu:

- Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu và mức nhập siêu (hay tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu);

- Dự trữ ngoại hối hay mức tăng dự trữ ngoại hối;

- Tốc độ tăng tỷ giá VND/USD.

Ba chỉ tiêu này có ý nghĩa lớn thể hiện việc ổn định kinh tế vĩ mô - lấy việc ổn định ở bên trong để ứng phó với bất ổn ở bên ngoài.

Thứ ba, giảm thiểu các chỉ tiêu số tuyệt đối trong mục tiêu, chẳng hạn như GDP theo giá thực tế hay tính theo USD (bởi phụ thuộc vào tốc độ tăng giá - còn gọi là giảm phát GDP - phụ thuộc vào tốc độ tăng tỷ giá VND/USD, trong khi giá USD có xu hướng giảm so với nhiều đồng tiền khác, ngay cả tính bình quân đầu người theo mục tiêu 1.200 USD tăng tới 20% so với năm trước).

Rồi kim ngạch xuất khẩu, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội, tổng thu ngân sách, tổng chi ngân sách, bội chi ngân sách (ở trên bội chi là 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8% GDP, nhưng nếu lấy tổng chi trừ đi tổng thu thì bội chi là 91,4 nghìn tỷ đồng và bằng 5% GDP, cao hơn tỷ lệ 4,95% của năm 2008 chứ không phải thấp hơn).

Thứ tư, trong điều kiện ưu tiên kiềm chế lạm phát, ứng phó khủng hoảng, ổn định kinh tế vĩ mô, lại phải chăm lo tốt hơn an sinh xã hội, thì tăng trưởng kinh tế nên "co bớt" - chỉ nên 6,5% hoặc để một khoảng 6,5 - 6,7%, chưa nên tăng cao về số lượng, mà tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng và tăng trưởng bền vững.

Thứ năm, so với năm trước theo chỉ tiêu thì nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản tăng thấp hơn (3% so với 3,5 - 3,9%), còn công nghiệp - xây dựng tăng cao hơn (8% so với 7,3- 7,5%) và dịch vụ cũng tăng cao hơn (7,8% so với 7,2- 7,8%). Vấn đề này cần phải được xem lại, bởi trong điều kiện ưu tiên kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô thì nông, lâm nghiệp - thuỷ sản cần được đặc biệt quan tâm.

Hơn nữa, khi đầu vào còn gặp khó khăn - nhất là lượng vốn đầu tư không cao hơn trước khi so với GDP; đầu ra có thể còn gặp khó khăn hơn vì tiêu thụ trong nước so với cùng kỳ 9 tháng qua chỉ tăng với tốc độ bằng một phần hai, một phần ba các năm trước, trong đó những tháng gần đây tăng thấp, thậm chí còn tăng trưởng âm do đầu tư giảm, tiêu dùng "thắt lưng buộc bụng"; xuất khẩu tăng chậm lại.

Thứ sáu, tốc độ tăng xuất khẩu đề ra 18% là quá cao khi bị tác động kép, khi dầu thô để lại chế biến trong nước...

Thứ bảy, tốc độ tăng của thu ngân sách quá thấp (thấp hơn cả so với tốc độ tăng GDP theo giá so sánh) và quan trọng hơn là thấp hơn cả tốc độ tăng chi (4,76% so với 7,4%) cũng là vấn đề cần xem lại.

Thứ tám, tốc độ tăng giá tiêu dùng dưới 15% là mức quá cao, đành rằng có một số mặt hàng (như điện, than) sẽ tăng giá khi thực hiện cơ chế giá thị trường,... nhưng giá thế giới giảm mạnh, nhu cầu trong nước giảm, xuất khẩu khó khăn. Đã có chuyên gia tính đến khả năng giảm phát trong một vài tháng nào đó.