Ban hành Nghị định về kinh doanh xổ số
Ngày 1/3, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 30/2007/NĐ-CP về kinh doanh xổ số
Ngày 1/3, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 30/2007/NĐ-CP về kinh doanh xổ số.
Nghị định có 7 chương, 34 điều. Chương I gồm 6 điều là những quy định về hoạt động kinh doanh xổ số của các doanh nghiệp kinh doanh xổ số và các tổ chức, cá nhân có liên quan trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị định này không điều chỉnh đối với việc tổ chức các chương trình dự thưởng có tính chất may rủi gắn liền với việc mua hàng hoá, dịch vụ, thuộc các hình thức khuyến mại theo quy định của Luật Thương mại.
Chương này cũng quy định rõ nguyên tắc kinh doanh xổ số là chỉ có doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ số mới được phép tổ chức hoạt động kinh doanh xổ số; hoạt động kinh doanh xổ số phải đảm bảo minh bạch, khách quan, trung thực, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia.
Về trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh xổ số; trách nhiệm, quyền lợi của người tham gia dự thưởng xổ số và các hành vi bị nghiêm cấm gồm: Tổ chức kinh doanh xổ số trái phép dưới mọi hình thức và mọi loại phương tiện; Sử dụng kết quả xổ số do các doanh nghiệp kinh doanh xổ số phát hành để tổ chức các chương trình dự thưởng; Phát hành xổ số từ nước ngoài cho tổ chức, cá nhân ở trong nước; Làm sai lệch kết quả trúng thưởng;Sử dụng xổ số làm phương tiện rửa tiền....
Chương II gồm 11 điều quy định về nội dung kinh doanh xổ số. Chương III gồm 5 điều quy định về việc thông tin, quảng cáo và khuyến mại. Chương IV gồm 3 điều quy định về doanh nghiệp kinh doanh xổ số; Chương V gồm 3 điều quy định về tài chính, kế toán và kiểm toán. Chương VI gồm 2 điều quy định về xử lý vi phạm. Chương VII gồm 4 điều quy định về tổ chức thực hiện, trong đó quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài chính; Bộ Công an và các cơ quan quản lý nhà nước khác.
Nghị định có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nghị định có 7 chương, 34 điều. Chương I gồm 6 điều là những quy định về hoạt động kinh doanh xổ số của các doanh nghiệp kinh doanh xổ số và các tổ chức, cá nhân có liên quan trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị định này không điều chỉnh đối với việc tổ chức các chương trình dự thưởng có tính chất may rủi gắn liền với việc mua hàng hoá, dịch vụ, thuộc các hình thức khuyến mại theo quy định của Luật Thương mại.
Chương này cũng quy định rõ nguyên tắc kinh doanh xổ số là chỉ có doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ số mới được phép tổ chức hoạt động kinh doanh xổ số; hoạt động kinh doanh xổ số phải đảm bảo minh bạch, khách quan, trung thực, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia.
Về trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh xổ số; trách nhiệm, quyền lợi của người tham gia dự thưởng xổ số và các hành vi bị nghiêm cấm gồm: Tổ chức kinh doanh xổ số trái phép dưới mọi hình thức và mọi loại phương tiện; Sử dụng kết quả xổ số do các doanh nghiệp kinh doanh xổ số phát hành để tổ chức các chương trình dự thưởng; Phát hành xổ số từ nước ngoài cho tổ chức, cá nhân ở trong nước; Làm sai lệch kết quả trúng thưởng;Sử dụng xổ số làm phương tiện rửa tiền....
Chương II gồm 11 điều quy định về nội dung kinh doanh xổ số. Chương III gồm 5 điều quy định về việc thông tin, quảng cáo và khuyến mại. Chương IV gồm 3 điều quy định về doanh nghiệp kinh doanh xổ số; Chương V gồm 3 điều quy định về tài chính, kế toán và kiểm toán. Chương VI gồm 2 điều quy định về xử lý vi phạm. Chương VII gồm 4 điều quy định về tổ chức thực hiện, trong đó quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài chính; Bộ Công an và các cơ quan quản lý nhà nước khác.
Nghị định có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.