Bộ Tài chính đề xuất tính thuế phần trả lãi vay vượt giới hạn
Bộ Tài chính cho rằng việc này sẽ góp phần đảm bảo lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, của nền kinh tế
Bộ Tài chính đã công bố dự án Luật sửa đổi, bổ sung loạt các sắc thuế trong đó có dự thảo Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Nổi bật trong đợt sửa đổi này, Bộ Tài chính đề xuất việc khống chế tỷ lệ vay vốn/vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Theo Bộ Tài chính, các doanh nghiệp sản xuất khi có phần chi trả lãi vay của khoản vay vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (tức tỷ lệ 5:1) thì phần chi trả lãi vay này sẽ không được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tương tự, với các doanh nghiệp ở lĩnh vực khác, định mức để khoản lãi vay được tính vào chi phí hợp lệ là khoản vay không được vượt quá bốn lần vốn chủ sở hữu (4:1).
Riêng các lĩnh vực đặc thù như tín dụng, ngân hàng thì tỉ lệ tối đa là không quá 12 lần vốn chủ sở hữu. Bộ Tài chính cũng đề xuất thời điểm áp dụng quy định này là từ 1/1/2019.
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành không có quy định khống chế khoản chi phí lãi tiền vay không được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu. Theo Bộ Tài chính, kẽ hở này khiến nhiều doanh nghiệp có vốn mỏng, chủ yếu dùng vốn vay để hoạt động, tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhỏ.
"Thực tế nhiều doanh nghiệp có khoản vay vốn sản xuất kinh doanh vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính của doanh nghiệp và cũng là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến thu ngân sách”, Bộ Tài chính cho hay.
Cơ quan này cho biết, vừa qua có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, thương mại, dịch vụ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lỗ trong khi doanh thu luôn tăng trưởng quá các năm và doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Trong khi xem xét báo cáo tài chính thì cho thấy nguyên nhân thua lỗ của doanh nghiệp phần lớn do chi phí tài chính bao gồm chi phí trả tiền lãi vay vốn cho công ty mẹ ở nước ngoài quá lớn, thậm chí có công ty chi phí trả lãi tiền vay vốn lên đến vài nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Bộ Tài chính cũng cho biết, qua thống kê sơ bộ số liệu của 57/85 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước thuộc Bộ, UBND tỉnh về tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu cho thấy tình hình dư nợ vay bình quân trên vốn chủ sở hữu tính đến hết năm 2014 là có 2 doanh nghiệp có hệ số lớn hơn 5 (1 đơn vị xây dựng và 1 kinh doanh xăng dầu); 6 doanh nghiệp có hệ số từ 3-5 (chủ yếu doanh nghiệp xây dựng) và 49 doanh nghiệp có hệ số nhỏ hơn 3.
Báo cáo của Bộ Tài chính còn cho hay, trong 9.400 doanh nghiệp FDI trên cả nước có tổng tài sản hơn 2,2 triệu tỷ đồng (khoảng 105 tỷ USD) chiếm tỷ trọng 70% doanh nghiệp FDI cho thấy hệ số nợ/vốn chủ sở hữu chung tất cả các ngành là 1,23 lần, của ngành thương mại là 3,44 lần. Nếu xét trên chỉ tiêu vốn vay/vốn chủ sở hữu thì hệ số này của tất cả các ngành là 0,57, của ngành thương mại là 1,8 lần.
Riêng đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng, hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 36 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nhìn ra thế giới, Bộ Tài chính khẳng định, nhiều nước có quy định về vốn mỏng, theo đó lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chẳng hạn, các nước OECD khuyến nghị áp dụng tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu là 3:1. Một số nước như New Zealand, Úc, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Brazil quy định vốn vay của doanh nghiệp trên vốn chủ sở hữu vượt quá 3:1 thì được coi là vốn mỏng.
Ở một số nước phát triển quy định tỷ lệ thấp hơn như Canada là 2:1 đối với doanh nghiệp thông thường, 5:1 đối với tổ chức tài chính. Nga quy định tỷ lệ 3:1 đối với doanh nghiệp thông thường và tỷ lệ 12,5:1 đối với ngân hàng và tổ chức tài chính. Hàn Quốc quy định tỷ lệ 3:1 nếu vay của các cổ đông nước ngoài và tỷ lệ 6:1 đối với các tổ chức tài chính.
Bộ Tài chính cho rằng đề xuất tính thuế phần lãi vay vượt giới hạn sẽ đảm bảo lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu kinh tế, chống chuyển giá.
Theo Bộ Tài chính, các doanh nghiệp sản xuất khi có phần chi trả lãi vay của khoản vay vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (tức tỷ lệ 5:1) thì phần chi trả lãi vay này sẽ không được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tương tự, với các doanh nghiệp ở lĩnh vực khác, định mức để khoản lãi vay được tính vào chi phí hợp lệ là khoản vay không được vượt quá bốn lần vốn chủ sở hữu (4:1).
Riêng các lĩnh vực đặc thù như tín dụng, ngân hàng thì tỉ lệ tối đa là không quá 12 lần vốn chủ sở hữu. Bộ Tài chính cũng đề xuất thời điểm áp dụng quy định này là từ 1/1/2019.
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành không có quy định khống chế khoản chi phí lãi tiền vay không được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu. Theo Bộ Tài chính, kẽ hở này khiến nhiều doanh nghiệp có vốn mỏng, chủ yếu dùng vốn vay để hoạt động, tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhỏ.
"Thực tế nhiều doanh nghiệp có khoản vay vốn sản xuất kinh doanh vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính của doanh nghiệp và cũng là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến thu ngân sách”, Bộ Tài chính cho hay.
Cơ quan này cho biết, vừa qua có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, thương mại, dịch vụ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lỗ trong khi doanh thu luôn tăng trưởng quá các năm và doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Trong khi xem xét báo cáo tài chính thì cho thấy nguyên nhân thua lỗ của doanh nghiệp phần lớn do chi phí tài chính bao gồm chi phí trả tiền lãi vay vốn cho công ty mẹ ở nước ngoài quá lớn, thậm chí có công ty chi phí trả lãi tiền vay vốn lên đến vài nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Bộ Tài chính cũng cho biết, qua thống kê sơ bộ số liệu của 57/85 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước thuộc Bộ, UBND tỉnh về tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu cho thấy tình hình dư nợ vay bình quân trên vốn chủ sở hữu tính đến hết năm 2014 là có 2 doanh nghiệp có hệ số lớn hơn 5 (1 đơn vị xây dựng và 1 kinh doanh xăng dầu); 6 doanh nghiệp có hệ số từ 3-5 (chủ yếu doanh nghiệp xây dựng) và 49 doanh nghiệp có hệ số nhỏ hơn 3.
Báo cáo của Bộ Tài chính còn cho hay, trong 9.400 doanh nghiệp FDI trên cả nước có tổng tài sản hơn 2,2 triệu tỷ đồng (khoảng 105 tỷ USD) chiếm tỷ trọng 70% doanh nghiệp FDI cho thấy hệ số nợ/vốn chủ sở hữu chung tất cả các ngành là 1,23 lần, của ngành thương mại là 3,44 lần. Nếu xét trên chỉ tiêu vốn vay/vốn chủ sở hữu thì hệ số này của tất cả các ngành là 0,57, của ngành thương mại là 1,8 lần.
Riêng đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng, hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 36 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nhìn ra thế giới, Bộ Tài chính khẳng định, nhiều nước có quy định về vốn mỏng, theo đó lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chẳng hạn, các nước OECD khuyến nghị áp dụng tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu là 3:1. Một số nước như New Zealand, Úc, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Brazil quy định vốn vay của doanh nghiệp trên vốn chủ sở hữu vượt quá 3:1 thì được coi là vốn mỏng.
Ở một số nước phát triển quy định tỷ lệ thấp hơn như Canada là 2:1 đối với doanh nghiệp thông thường, 5:1 đối với tổ chức tài chính. Nga quy định tỷ lệ 3:1 đối với doanh nghiệp thông thường và tỷ lệ 12,5:1 đối với ngân hàng và tổ chức tài chính. Hàn Quốc quy định tỷ lệ 3:1 nếu vay của các cổ đông nước ngoài và tỷ lệ 6:1 đối với các tổ chức tài chính.
Bộ Tài chính cho rằng đề xuất tính thuế phần lãi vay vượt giới hạn sẽ đảm bảo lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu kinh tế, chống chuyển giá.