Công chức làm sai phải bồi thường tối đa 36 tháng lương
Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 3/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước vừa được Chính phủ vừa ban hành sẽ có hiệu lực từ ngày thi hành từ ngày 20/4/2010.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2010.
Theo luật này, người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Nghị định quy định, trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó, tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Nghị định này cũng quy định rõ cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong 2 hoạt động: quản lý hành chính và thi hành án dân sự.
Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là cán bộ, công chức thuộc cấp bộ, tổng cục, cục hoặc là thành viên UBND cấp tỉnh thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cấp bộ, tổng cục, cục và UBND cấp tỉnh đó.
Trong trường hợp là thành viên UBND cấp huyện và do các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là UBND cấp huyện. Đối với cấp xã, sẽ bồi thường khi người thi hành công vụ hoặc cán bộ, công chức cấp xã gây ra thiệt hại.
Riêng hoạt động thi hành án dân sự, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án cấp tỉnh, Cục thi hành án Bộ Quốc phòng hoặc Chi cục thi hành án cấp huyện, cấp quân khu thì những cơ quan này phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường.
Về thời hạn, Nghị định nêu rõ, trường hợp người bị thiệt hại không xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường thì trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản của người bị thiệt hại, cơ quan quản lý Nhà nước về bồi thường phải có văn bản xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan tài chính cùng cấp để thực hiện chi trả tiền bồi thường.
Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ bồi thường đối với các trường hợp thiệt hại được quy định trong phạm vi của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người thi hành công vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Cũng như vậy, không bồi thường thiệt hại xảy ra trong điều kiện vì người thi hành công vụ muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền lợi ích của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2010.
Theo luật này, người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Nghị định quy định, trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó, tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Nghị định này cũng quy định rõ cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong 2 hoạt động: quản lý hành chính và thi hành án dân sự.
Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là cán bộ, công chức thuộc cấp bộ, tổng cục, cục hoặc là thành viên UBND cấp tỉnh thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cấp bộ, tổng cục, cục và UBND cấp tỉnh đó.
Trong trường hợp là thành viên UBND cấp huyện và do các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là UBND cấp huyện. Đối với cấp xã, sẽ bồi thường khi người thi hành công vụ hoặc cán bộ, công chức cấp xã gây ra thiệt hại.
Riêng hoạt động thi hành án dân sự, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án cấp tỉnh, Cục thi hành án Bộ Quốc phòng hoặc Chi cục thi hành án cấp huyện, cấp quân khu thì những cơ quan này phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường.
Về thời hạn, Nghị định nêu rõ, trường hợp người bị thiệt hại không xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường thì trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản của người bị thiệt hại, cơ quan quản lý Nhà nước về bồi thường phải có văn bản xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan tài chính cùng cấp để thực hiện chi trả tiền bồi thường.
Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ bồi thường đối với các trường hợp thiệt hại được quy định trong phạm vi của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người thi hành công vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Cũng như vậy, không bồi thường thiệt hại xảy ra trong điều kiện vì người thi hành công vụ muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền lợi ích của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.