Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình còn nhiều hạn chế
Tại Hội thảo cung cấp thông tin định hướng mới của chương trình dân số Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Doãn Tú cho hay, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế, mức sinh giữa các vùng miền còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng, chưa có giải pháp dồng bộ phát huy lợi thế cả thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số; Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao…
Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước: Tốc độ tăng trưởng dân số được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết đề ra và tiếp tục duy trì đến nay, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng cao.Theo ông Nguyễn Doãn Tú, từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng; Chất lượng dân số được cải thiện nhiều mặt, tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi vào năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng ức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số được phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.Tuy nhiên, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế, mức sinh giữa các vùng miền còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng, chưa có giải pháp dồng bộ phát huy lợi thế cả thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số; Người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp; Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thể lức người Việt Nam chậm được cải thiện, tuổi thọ bình quân tăng trưởng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp hơn so với nhiều nước. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn phổ biến ở một số đồng bào dân tộc ít người. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.Công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, vai trò nhà trường còn hạn chế. Nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia đình; tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số tại các cấp cơ sở còn thấp. Nguồn lực đầu tư cho công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu…Để giải quyết toàn diện các vấn đề phát sinh trong công tác dân số trong thời kỳ mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trong hội nghị lần thứ 6 đã đề ra nghị quyết về công tác Dân số trong thời kỳ mới với mục tiêu chung: Giải quyết toàn diện các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Để đưa Nghị quyết XXI vào thực tiễn, Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết 137, chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết XXI, trong đó chính phủ đã giao cho 12 Bộ, Ban, ngành xây dựng 42 chương trình, luật, đề án chương trình hành động nhằm củ thể hóa Nghị quyết XXI về dân số trong thời kỳ mới.Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết XXI, một số văn bản luật, chiến lược, chương trình, đề án đã được ban nhành như: luật lao động sửa đổi, chiến lược dân số đến năm 2030, chiến lược truyền thông dân số đến năm 2030; chương trình điều chỉnh mức sinh giữa các vùng, các đối tượng đến năm 2030; chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tới năm 2030; chương trình nâng cao chất lượng dân số, tầm soát sàng lọc bệnh tật trước sinh và sơ sinh,… Trong thời gian tới, mô hình tổ chức bộ máy làm công tác dân số, cơ chế phối hợp liên ngành, mô hình cộng tác viên làm công tác dân số, gia đình trể em cũng sẽ được hoàn thiện và trình chính phủ ban hành.Các Bộ, Ban ngành khác như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên - môi trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch- Đầu tư.. cũng đã và sẽ ban hành các đề án, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 137 của Chính phủ. Những chương trình đề án được xây dựng theo Nghị quyết 137 chính là những nội dung quan trọng của công tác dân số trong thời kỳ mới, đặc biệt là trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.