Mãi chưa giải được bài toán phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu
Dệt may, da giày, gỗ, điện tử, sản xuất, lắp ráp ôtô… là những ngành luôn dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng đang phụ thuộc chủ yếu vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu. Điều này ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh
Đợt dịch Covid – 19 vừa qua đã bộc lộ rõ nhất hạn chế này. Không ít doanh nghiệp dệt may như "ngồi trên đống lửa" vì các đối tác cung cấp nguyên phụ liệu không thể giao hàng, làm ảnh hưởng đến 20-30% năng lực sản xuất toàn ngành. Tương tự, các ngành giày da, công nghiệp điện tử, ô tô, thép… cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt nguồn cung linh phụ kiện đầu vào.
RỦI RO TỪ CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
PGS.TS Phạm Tất Thắng, nghiên cứu viên cao cấp Bộ Công Thương, cho rằng Việt Nam phát triển được các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, gỗ... thì cũng vấp phải các vấn đề về nguồn nguyên liệu. Nguồn nguyên liệu ngày nay không đơn thuần như trước đây vì phải thỏa mãn những yêu cầu về môi trường, sinh học, an sinh xã hội.
"Năng lực sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam rất lớn và khả năng về mặt kỹ thuật rất cao, đáp ứng được những yêu cầu rất khắt khe của các thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản, Mỹ.... Thế nhưng, gỗ nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu phải thỏa mãn các yêu cầu của thị trường hiện đại, chẳng hạn phải có chứng chỉ rừng. Đây là vấn đề vô cùng nan giải, đòi hỏi các biện pháp căn cơ và dài hạn. Vì thế vẫn phải nhập khẩu để có được nguồn nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm gỗ xuất khẩu", PGS.TS Phạm Tất Thắng nêu thực tế.
Theo số liệu từ Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ngành chế biến, xuất khẩu gỗ và lâm sản đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ khi kết thúc năm 2020 đầy khó khăn do ảnh hưởng của Covid-19 vẫn đạt con số 13,23 tỷ USD, tăng 19,7% so với năm trước. Và mục tiêu của năm 2021 là xuất khẩu đạt khoảng 15 tỷ USD.
Tuy nhiên, theo ông Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay nguồn nguyên liệu gỗ trong nước còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, trong khi việc kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp chưa được chặt chẽ. Chính vì vậy trong thời gian tới để đạt được mục tiêu xuất khẩu hơn 15 tỷ USD, ngành gỗ phải giải quyết tốt vấn đề về nguồn nguyên liệu, nhất là tránh những rủi ro về nguồn gỗ nhập khẩu phải có tính hợp pháp theo quy định.
Tương tự với ngành dệt may, da giày, mặc dù là những ngành nằm trong "Top" có kim ngạch xuất khẩu cao, nhưng nguyên phụ liệu dùng để sản xuất các ngành hàng này chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc (chiếm khoảng 80%). Chính vì phụ thuộc quá nhiều nguyên phụ liệu vào thị trường Trung Quốc nên khi dịch Covid-19 xảy ra, ngành dệt may, da giày rơi vào tình thế khó khăn khi không chủ động được nguồn nguyên liệu.
Theo số liệu từ Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương Mại (Bộ Công Thương), năm 2020 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc của Việt Nam đạt 35,29 tỷ USD, nhưng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt và may mặc của Việt Nam cũng lên tới con số 21,38 tỷ USD. Đáng chú ý, trong số bốn thị trường cung cấp nguyên phụ liệu dệt may chủ yếu vào Việt Nam là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Mỹ thì Trung Quốc là thị trường cung cấp chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm tới 50,61% tổng trị giá nhập khẩu các nguyên phụ liệu ngành dệt may của Việt Nam. Tiếp đến là Hàn Quốc với tỷ trọng chiếm 10,67%.
Báo cáo mới nhất từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho thấy, trong 3 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 8,85 tỷ USD, tăng 5,59% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu đạt 5,11 tỷ USD, tăng 10,15% so với cùng kỳ.
Nhìn nhận về con số này, một số chuyên gia cho rằng năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt Nam rất lớn vì nguồn nhân công dồi dào, chịu khó, tiếp thu kiến thức đào tạo tốt, giá nhân công không quá đắt. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may động chạm đến vấn đề nguyên liệu đầu vào, trước hết là vải.
Thời gian qua, ngành dệt may đã tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ khá tốt, giải quyết các vấn đề về sợi, vải. Về lượng chúng ta dư dả, nhưng vấp phải các vấn đề về cơ cấu vì yêu cầu mặt hàng vải cho dệt may, đặc biệt là những nguyên liệu cho dệt may cũng vô cùng tỉ mỉ, phức tạp. Do vậy, Việt Nam phải dựa vào thị trường nước ngoài.
Ngoài ra, một số ngành công nghiệp chủ lực khác như điện tử, sản xuất, lắp ráp ôtô, thép... cũng đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện nhập khẩu. Do đó, khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ tại các quốc gia cung ứng, những ngành này cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
TẬP TRUNG CHO CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Việc phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu là mối nguy tiềm ẩn cho hoạt động sản xuất trong nước. Để giải quyết mối nguy này, một trong những giải pháp cấp thiết hiện nay là phải phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Thế nhưng, sau hơn 20 năm với nhiều "quyết tâm", ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn như "đứa trẻ không chịu lớn". Đến nay, năng lực của ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn hạn chế, chưa như kỳ vọng. Quá trình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam cũng chậm, kém hiệu quả. Điều này được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết, khi rất nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh khó khăn vì thiếu nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất vì đại dịch Covid-19 bùng phát, lan rộng khiến việc kết nối với các thị trường cung cấp nguyên phụ liệu bị gián đoạn.
Theo số liệu tổng hợp từ Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), tại Việt Nam: 60% vải nguyên liệu phải nhập từ Trung Quốc; 42% linh kiện điện tử phải nhập từ Hàn Quốc; hơn 64% phụ tùng, linh kiện ô tô phải nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Vì vậy, khi dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại Trung Quốc, Hàn Quốc, rất nhiều nhà sản xuất trong nước gặp khó khăn khi chuỗi cung ứng hàng hóa đột ngột bị gián đoạn.
Mặc dù thời gian qua đã có không ít những chính sách khuyến khích, thúc đẩy phát triển của công nghiệp hỗ trợ được ban hành, nhưng theo các doanh nghiệp, phần lớn các chính sách này chỉ mang ý nghĩa động viên về tinh thần do rất khó tiếp cận.
Thế nên, rất ít doanh nghiệp trong nước đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, hoặc nếu có đầu tư thì đa phần cũng không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do sản phẩm công nghiệp hỗ trợ còn đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong sản phẩm.
Do đó, một trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ để thu hút đầu tư nguồn lực xã hội vào phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Trong đó, quan trọng nhất là thu hút đầu tư các nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh và các nhà cung cấp cụm linh kiện, linh kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là các doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu phục vụ thị trường trong nước và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hưởng ưu đãi thuế quan khi đáp ứng tỷ lệ xuất xứ nội địa. Chỉ có như vậy. Việt Nam mới có thể từng bước "tự chủ" được nguồn cung nguyên vật liệu cho sản xuất.