13:56 16/01/2009

Thời và thế cho hàng nội

VnEconomy

Sức cạnh tranh của hàng nội là chủ điểm trong cuộc giao lưu trực tuyến trên VnEconomy chiều 16/1

Bài toán cạnh tranh của hàng nội thời suy thoái kinh tế là không dễ tìm lời giải - Ảnh: Việt Tuấn.
Bài toán cạnh tranh của hàng nội thời suy thoái kinh tế là không dễ tìm lời giải - Ảnh: Việt Tuấn.
Sức cạnh tranh của hàng nội là chủ điểm trong cuộc giao lưu trực tuyến trên VnEconomy chiều 16/1.

Những thông tin xuất hiện dồn dập trên các mặt báo thời gian gần đây cho thấy các mặt hàng sản xuất trong nước đang đứng trước những thử thách lớn.

Xu hướng thắt chặt chi tiêu của người tiêu dùng đang rõ nét dần, song song với xu thế chú trọng hơn tới thị trường nội địa của các doanh nghiệp Việt Nam, khi đầu ra xuất khẩu bị co hẹp vì ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu.

Việc Việt Nam đã mở cửa thị trường bán lẻ từ 1/1/2009 chắc chắn cũng sẽ chất thêm áp lực cạnh tranh lên đôi vai chưa mấy vững chãi của hàng nội. Trong bối cảnh Chính phủ đang tìm giải pháp kích cầu, chống suy giảm, viễn cảnh hàng nội lao đao bởi cơn lũ hàng Trung Quốc giá rẻ chực chờ cơ hội tràn vào là một nguy cơ rất thật.

Làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của các mặt hàng trong nước, mở rộng thị trường nội địa..., là những vấn đề mà VnEconomy hy vọng độc giả sẽ thảo luận thẳng thắn với các chuyên gia độc lập và đại diện doanh nghiệp sản xuất, phân phối trong nước:

- TS. Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp;

- Bà Vũ Thị Hậu, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Nhất Nam, đơn vị quản lý và phát triển mạng lưới siêu thị Fivimart;

- Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần May 10.

Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 1
Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 2
Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 3
Ông Lê Đăng Doanh
Vũ Thị Hậu
Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền

Như VnEconomy đã đưa tin, ông Nguyễn Cẩm Tú, Thứ trưởng Bộ Công Thương, sẽ là một trong những khách mời của buổi giao lưu này. Tuy nhiên, do có công việc đột xuất, ông không thể kịp sắp xếp thời gian tham dự. VnEconomy xin chân thành cáo lỗi với độc giả.

Sau đây là những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến:

Huỳnh Quang Anh:

Theo giới thiệu về buổi giao lưu “thời và thế” của hàng nội, các diễn giả có thể cho biết nhận định về hai yếu tố trên đối với hàng Việt Nam mình nói chung và của riêng doanh nghiệp mình? Trân trọng cảm ơn.

Ông Lê Đăng Doanh:

Chào bạn,

Về thời, năm 2009 là một năm còn khó khăn hơn so với năm 2008 của nền kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam chiếm 72% GDP, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn biến phức tạp. 25 nền kinh tế lâm vào suy thoái, 50 nền kinh tế đã có gói kích thích kinh tế.

Vì vậy sức mua giảm sút rất nhiều, ở trong nước đã có nhiều lao động bị giãn việc, tức là một tuần chỉ làm việc một hai ngày hay tạm thời cho nghỉ việc để làm không đúng chuyên môn, nhiều lao động được cho nghỉ Tết sớm và có khả năng không ít doanh nghiệp chưa mở cửa trở lại ngay sau tết.

Ở khu công nghiệp tập trung, từ chủ nhà trọ, người phục vụ cơm nước, anh xe ôm, chị bán bún... đều gặp khó khăn.

Vì vậy, thời ở đây là một thời khó khăn, và đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích nhu cầu có khả năng thanh toán thật kỹ.

Theo tôi trong trước tình hình khó khăn như vậy, với những mặt hàng lâu bền thì người ta sẽ tạm hoãn việc mua sắm, như tivi, tủ lạnh...

Nhưng những sản phẩm hàng tiêu dùng, như lương thực, thực phẩm... thì tùy theo sức mua, nhu cầu có khả năng thanh toán thì tôi cho là vẫn có triển vọng.

Về thế, doanh nghiệp Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với những sản phẩm từ Trung Quốc và các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia... sẽ tràn vào Việt Nam.

Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải hành động thiết thực và tư duy toàn cầu, phải biết đối thủ cạnh tranh đưa ra sản phẩm nào, giá nào để cạnh tranh với họ.

Thứ hai là doanh nghiệp Việt Nam phải phân tích thế mạnh, cơ hội, thách thức và đưa ra phương án phù hợp.

Theo tôi, doanh nghiệp cần có "phương án tác chiến" là đánh nhỏ, thắng nhỏ nhưng chắc thắng, mỗi trận đánh phải chắc thắng.

Điều này cũng giống như xây một cái nhà 20 tầng, thay vì xây một lúc tất cả 20 tầng thì nên làm từ từ, xong tầng 1 thì cho thuê và xây tầng thứ 2 rồi lại cho thuê.

Hết sức sáng tạo, cơ cấu ngành hàng, triệt để tiết kiệm là điều rất quan trọng. Những phương án trong quá khứ dù đã đúng, cũng chưa chắc đúng với tình hình hiện nay.

Bà Vũ Thị Hậu:

Đứng ở góc độ nhà bán lẻ, tôi cho rằng đây là thời điểm tốt nhất cho hàng nội vào thị trường vì người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển từ hàng nhập khẩu sang sử dụng hàng nội do xu hướng cắt giảm chi phí, chi tiêu.

Do đó, các doanh nghiệp sản xuất trong nước nên tranh thủ lúc này để đưa sản phẩm của mình vào thị trường để chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Ban đầu, họ sẽ ưu tiên hàng nội vì mục đích cắt giảm chi tiêu, nhưng khi dùng quen, họ sẽ cảm thấy yêu thích hàng nội.

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Nếu mà nhận định đúng thì hàng nội nói chung đang có chất lượng rất tốt. Người Việt Nam cần thay đổi tâm lý thích dùng hàng ngoại, nếu không sẽ phải trả giá đắt cho sản phẩm có chất lượng như nhau, chỉ khác nhau một cái tên.

Riêng về hàng dệt may, nhiều năm trước đây tôi đã nhận định là người Việt Nam đang được sử dụng các sản phẩm công nghệ tốt nhất, chất lượng tốt nhất nhưng giá của Việt Nam. Từ lâu các doanh nghiệp Việt Nam đã  sản xuất được các sản phẩm nổi tiếng trên thế giới.
 
May 10 của chúng tôi có chính sách nghiêm ngặt trong việc quản lý chất lượng để cung cấp cho thị trường trong nước những sản phẩm tốt nhất, vì hai lý do:

- Doanh nghiệp Việt Nam phải tôn trọng người Việt Nam thể hiện qua chất lượng sản phẩm.

- Người tiêu dùng Việt Nam rất khó tính.
Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 4
H.Phan:

Tôi thấy chính sách kích cầu vừa được Chính phủ thông qua có điểm nổi bật là tăng chi và giảm thu. Nay chúng ta khuyến khích người dân chi tiêu nhiều hơn dễ dẫn tới bội chi ngân sách, tiêu hao tiết kiệm, giảm nội lực. Ông Doanh nghĩ có nên lo lắng vì điều này?

Ông Lê Đăng Doanh:

Tôi hoàn toàn chia sẻ với lo lắng của bạn về khó khăn của cân đối ngân sách.

Nguồn thu ngân sách của chúng ta hiện nay có khoảng 22-24% từ bán dầu thô. Với việc giá dầu thô trên thế giới đã giảm từ 147 USD/thùng xuống dưới 40 USD/thùng hiện nay thì chúng ta có thể thấy nguồn thu ngân sách từ dầu thô đã giảm đi 2/3.

Nói cách khác, ngân sách giảm 12-18% nguồn thu, hơn thế nữa với việc Chính phủ vừa quyết định giảm thuế, giãn, hoãn thu thuế cũng sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách. Trong tình hình đó, việc thu đúng, thu đủ và tiết kiệm chi là điều hết sức cần thiết, song cũng khó có thể bù đắp được nguồn thu to lớn như vậy.

Cũng phải nói thêm nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong một điều kiện rất khó khăn. Chúng ta phải giải quyết lạm phát, ngân sách chúng ta bội chi hàng năm là 5%, chúng ta nhập siêu với tỷ lệ khá cao, chúng ta cân đối cán cân thanh toán bằng rất nhiều nguồn trong khi nguồn thu lại chưa ổn định. Ví dụ từ kiều hối, giải ngân đầu tư nước ngoài...

Nếu so với Trung Quốc thì họ là nước xuất siêu, dự trữ ngoại tệ là gần 2.000 tỷ USD, tương đương bình quân mỗi người dân có mức dự trữ là hơn 1.000 USD.

Nếu so sánh như vậy thì chúng ta phải có khoảng 100 tỷ USD dự trữ mới bằng mức dự trữ USD tính theo đầu người của Trung Quốc. Nói như vậy để thấy khó khăn của Chính phủ là rất lớn. Vì vậy cần phải chia sẻ với khó khăn của Chính phủ và phải đánh giá một cách đúng đắn và cầu thị.

Trong tình hình đó, tôi nghĩ cần phải tiết kiệm từ các khoản đầu tư từ ngân sách và phát hành trái phiếu Chính phủ để cho các khoản chi cần thiết và bù đắp thiếu hụt từ ngân sách.

Tôi hy vọng, toàn dân, doanh nghiệp sẽ thông cảm với Chính phủ và cũng tham gia giải quyết khó khăn này.

Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 5

Lê Thanh Sơn:

Xin các diễn giả cho biết quan điểm kích cầu tiêu dùng hiện nay nên triển khai như thế nào, cần những chính sách nào?

Ông Lê Đăng Doanh:

Kích cầu tiêu dùng trước hết để góp phần ngăn chặn suy giảm của nền kinh tế, vì thế cần phải trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là những doanh nghiệp có khả năng chuyển đổi linh hoạt, kinh doanh có hiệu quả và tạo ra nhiều việc làm.

Chính phủ đã quyết định sử dụng 17 nghìn tỷ đồng để bù lãi suất tín dụng và giảm thuế cho doanh nghiệp, đây là việc thiết thực và có hiệu quả trong điều kiện hiện nay.
 
Trợ cấp tín dụng tiêu dùng cần làm thận trọng và tiến hành có chọn lọc .Với một số mặt hàng có thể cho vay tín dụng tiêu dùng, như trợ giúp các dự án xây dựng nhà ở với người có thu nhập và có khả năng thanh toán. Cần rút kinh nghiệm từ việc cho vay tín dụng tràn lan ở Hoa Kỳ đã dẫn đến đổ vỡ của ngân hàng và khủng hoảng tài chính .
 
Về chính sách cần đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt số giấy phép, thủ tục hành chính không cần thiết, không đem lại hiệu quả mà chỉ gây nên phiền hà. Đăng ký kinh doanh thì dễ dàng nhưng cần đất, xây dựng, môi trường rất rườm rà. VCCI đã tính toán, nếu giảm một nửa thủ tục hành chính hiện nay thì chi phí của doanh nghiệp có thể giảm 13 ngàn tỉ đồng một năm.
.
Chỉ số giá dự đoán tăng không cao, có thể lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm nên có thể kích cầu thuận lợi. Nhà nước đã nới rộng biên độ giao dịch, cụ thể là tỷ giá hối đoái thực của Việt Nam là tăng lên chứ không giảm đi, vì nhiều đồng tiền trên thế giới giảm giá rất nhiều... Như vậy thì chúng ta sẽ có khả năng xuất khẩu cao hơn.

Nguyễn Văn Thịnh:

Theo nhận định của các diễn giả, để hàng Việt đến với người Việt, hiện này còn có những khó khăn gì?

Ông Lê Đăng Doanh:

Để hàng Việt đến với người Việt thì tôi nghĩ còn cần phải vượt qua một số những vấn đề sau đây:

Thứ nhất, nhiều sản phẩm của Việt Nam chỉ chú trọng xuất khẩu ra nước ngoài, ít chú trọng đến thị trường trong nước, nên người Việt Nam ít biết đến chất lượng và thương hiệu ở Việt Nam.

Tôi có đi thăm siêu thị, thấy có chiếc áo sơ mi mang thương hiệu CK giá 2.299.000 đồng/chiếc, nhưng người mua thì không phải là ít. Tôi hỏi một chuyên gia về ngành may mặc, người đó nói hàng may mặc Việt Nam có chất lượng không kém hàng ngoại nhưng giá thì không đắt tới mức đó.

Cho nên xây dựng, quảng bá thương hiệu là điều rất cần thiết.

Thứ hai, hàng Việt Nam đến với người tiêu dùng qua nhiều khâu trung gian nên đẩy giá lên quá cao. Ví dụ gạo đến tay người tiêu dùng phải qua 4 khâu trung gian, một trái xoài, nho... cũng qua 3, 4 khâu trung gian.

Trong khi đó, hãng Metro đã ký trực tiếp với nhiều hộ nông dân, hướng dẫn họ cách trồng chọt, chăn nuôi, đóng gói... Metro tự kiểm tra chất lượng, thu mua từ nguồn...

Như vậy cũng sản phẩm đó, khi qua nhà phân phân phối nước ngoài lại không qua trung gian, nên giá rẻ hơn.

Tôi nghĩ các nhà phân phối phải đặt mối quan hệ như vậy, để người tiêu dùng được hưởng giá thấp nhấp nhất, chất lượng tốt nhất để mang lại hiệu quả nhất.

Thứ ba, các sản phẩm nước ngoài ở Việt Nam, họ có quy trình rất tốt để đảm bảo chất lượng.

Ví dụ, gà rán KFC đều được chuẩn bị và qua quy trình chặt chẽ, nhiệt độ, mùi vị... theo một quy trình. Trong khi đó, có một thương hiệu cà phê khá nổi tiếng tại Việt Nam, khi uống ở các cửa hàng khác nhau thì lại có chất lượng khác nhau.

Với các sản phẩm kỹ thuật, họ có cam kết dịch vụ hậu mãi, sau bán hàng rất cao. Chẳng hạn Honda có quy trình bảo trì, bảo dưỡng rất tốt.

Nên những sản phẩm kỹ thuật của Việt Nam phải phát triển dịch vụ sau bán hàng giống họ. Nếu làm được thì hàng Việt sẽ đến với người Việt Nam thuận lợi rất nhiều.

Bà Vũ Thị Hậu:

Các nhà sản xuất trong nước thường chỉ chú ý đến giá và chất lượng khi cạnh tranh, mà chưa chú ý đến việc lựa chọn kênh phân phối.

Theo tôi, các nhà sản xuất nên chú trọng những kênh phân phối hiện đại như siêu thị và trung tâm thương mại. Đây là những con đường ngắn nhất để sản phẩm của họ đến thẳng tay người tiêu dùng.

Như vậy, giá đến tay người tiêu dùng mới rẻ hơn, vì hạn chế được các kênh trung gian.

Leo:

Tôi theo dõi thì thấy giai đoạn khủng hoảng khu vực năm 1997-1998, Hàn Quốc và Nhật Bản khuyến khích người dân “thắt lưng buộc bụng” cùng Chính phủ. Ta thì ngược lại, Chính phủ muốn khuyến khích người dân tiêu dùng nhiều hơn. Theo các ông bà, ở Việt Nam hiện nay nên kích cầu hay “thắt lưng buộc bụng”?

Ông Lê Đăng Doanh:

Trong thời kỳ khủng hoảng thì không yêu cầu người dân cũng phải tiết kiệm.

Ở một quốc gia giàu có như nước Mỹ, người dân cũng tiết kiệm, không mua sắm ô tô, đi du lịch... nên các ngành này rất khó khăn. Ba công ty ôtô đã phá sản, du lịch khó khăn.
 
Tại Việt Nam thì sức mua có khả năng thanh toán năm 2008 đã giảm và năm 2009 sẽ hạn chế. Trong khi đó các doanh nghiệp đang muốn quay lại thị trường nội địa, việc khuyến khích tiêu dùng phù hợp với khả năng là cần thiết.

Chính phủ  không khuyến khích tiêu dùng hoang phí, nhưng người Việt Nam vốn đã tiết kiệm rồi. Tôi tin chắc người dân sẽ hưởng ứng dùng hàng nội và sẽ dùng nhiều hàng nội.
 
Hiện nay ôtô, điện tử và nhiều mặt hàng khác giảm giá khá mạnh nên đây là thời điểm thuận lợi để tiêu dùng một cách tiết kiệm, hợp lý.

Lê Vũ Hồng Nhung:

Là một người tiêu dùng, tôi nhận thấy chất lượng nhiều sản phẩm của Việt Nam không hề thua kém hàng ngoại. Thế nhưng giá hàng ngoại lại cao hơn nhiều và được chuộng hơn. Phải chăng là do thương hiệu của họ mạnh hơn?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Tôi đồng tình với nhận xét của bạn, nhưng xây dựng thương hiệu là cả quá trình lâu dài. Tôi tin rằng trong một thời gian không xa, các thương hiệu của Việt Nam sẽ chiếm dược lòng tin của người tiêu dùng.

Cũng xin nói thêm là người tiêu dùng Việt Nam đang phải trả tiền nhiều hơn để mua sản phẩm ngoại có chất lượng ngang với hàng nội.

Bà Vũ Thị Hậu:

Theo chính sách thuế, những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được, nếu nhập khẩu sẽ phải chịu mức thuế rất cao. Thêm vào đó là sự trượt giá của đồng ngoại tệ được dùng cho việc nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sẽ cộng tất cả các chi phí đó vào giá bán, chính vì thế, hàng sản xuất trong nước thường rẻ hơn rất nhiều hàng nhập ngoại.
 
Vấn đề thương hiệu cũng là một vấn đề quan trọng. Theo tôi, sản phẩm có tốt thì thương hiệu đó mới đi vào lòng người tiêu dùng được.

M.Tam:

Tôi gần như không thấy người tiêu dùng được bảo vệ gì trước phần lỗi từ các doanh nghiệp, ví dụ như vụ Vedan, sữa nhiễm melamine, gian lận giá xăng... Thế thì việc kêu gọi người tiêu dùng ủng hộ hàng Việt có phải là một chiều quá không?

Bà Vũ Thị Hậu:

Vụ Vedan là vấn đề môi trường, chứ không phải là vấn đề chất lượng sản phẩm. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường.

Những vụ việc mà bạn nêu đã gây ảnh hưởng rất nhiều tới các doanh nghiệp sản xuất khác trong nước. Ta vẫn phải kêu gọi sử dụng hàng nội để ủng hộ những doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh, giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển.

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Chào bạn, tôi nghĩ không nên lấy ví dụ cụ thể để phủ nhận cái chung. Việc kêu gọi người tiêu dùng ủng hộ hàng Việt không phải là một chiều vì còn có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính, tôn trọng khách hàng và sản phẩm của họ đã và đang được khách hàng tin cậy.
   
Hoàng Vân Nga:
 
Có một tâm lý chung khá phổ biến hiện nay là người tiêu dùng còn có tâm lý “sính ngoại”, hoặc chưa đề cao chất lượng hàng Việt Nam so với hàng ngoại nhập. Các diễn giả nghĩ thế nào?

Bà Vũ Thị Hậu:

Tâm lý đó là tâm lý chung của người tiêu dùng hiện nay. Nhưng cũng cần khẳng định với người tiêu dùng rằng, khi sử dụng sản phẩm nhập khẩu, bạn phải trả thêm thuế nhập khẩu và sự trượt giá của đồng ngoại tệ.

Chính vì vậy, người tiêu dùng nên sử dụng hàng nội đối với các sản phẩm trong nước sản xuất được và chỉ nên  dùng hàng ngoại đối với những mặt hàng chưa sản xuất được trong nước.

Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 6

Lê Thế Thiện:

Xin được hỏi lãnh đạo Công ty May 10: May 10 gắn với khẩu hiệu “Đẳng cấp đã được khẳng định”. Không biết có phải vì thế mà giá các sản phẩm thường khá cao. Và như thế có loại trừ các khách hàng bình dân không?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Tôi xin đính chính một chút là khẩu hiệu của chúng tôi hiện nay là "Đẳng cấp luôn được khẳng định", nghĩa là không phân biệt đối tượng khách hàng mà luôn cung cấp những sản phẩm tốt  nhất cho mọi đối tượng.
 
So với các sản phẩm cùng loại mà chúng tôi sản xuất với thương hiệu của nước ngoài thì giá của May 10 chỉ bằng 1/5. Hiện nay sản phẩm sơ mi cao cấp nhất của chúng tôi chỉ có giá 976 ngàn đồng.

Còn dòng bình dân dao động từ 159 đến khoảng trên dưới 200 ngàn đồng. Còn cao hơn cũng chỉ từ 300-500 ngàn đồng. Trong khi những sản phẩm cùng loại của nước ngoài có giá từ 1-1,5 triệu đồng.
 
Nguyễn Văn Thịnh:

Theo nhận định của các diễn giả, để hàng Việt đến với người Việt, hiện này còn có những khó khăn gì?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Khó khăn lớn nhất chính là đông đảo người tiêu dùng  hiện nay vẫn còn tâm lý ưa hàng ngoại.

Thứ hai là các nhà sản xuất còn chưa làm cho người tiêu dùng hiểu được giá trị của sản phẩm mà họ cung cấp.
 
Tôi nghĩ để hàng Việt đến được với người Việt thì trước hết các doanh nghiệp phải khắc phục được hạn chế này.
    
Nhà báo Thúy Nga:

Theo tôi, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn trên khắp toàn cầu như thế này, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, có lẽ lúc này nên có động tác gì đó để người tiêu dùng nâng cao ý thức tiêu thụ hàng trong nước. Ông Doanh có ý kiến như thế nào về vấn đề này. Nếu nên thì những động tác đó là gì?

Ông Lê Đăng Doanh:

Tôi rất nhất trí với độc giả là trong hoàn cảnh hiện nay thì toàn thể xã hội cần phải phát động phong trào “Người Việt dùng hàng Việt”.

Và không phải chỉ có doanh nghiệp, nhà sản xuất mà tôi hy vọng là Mặt trận Tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,... tất cả các tổ chức sẽ phát động phong trào cũng như vận động chiến dịch này.

Chính phủ nên đi đầu trong việc này thông qua việc mua sắm, ưu tiên hàng Việt Nam sản xuất nếu như có chất lượng tương đương như cái cặp, tờ giấy, bút bi...

Nếu như chúng ta sử dụng không chỉ hàng tiêu dùng mà cả máy móc, thiết bị có chất lượng tương đương với giá rẻ hơn so với sản phẩm nước ngoài, thì đó là đóng góp rất lớn để thúc đẩy thị trường nội địa.

Nguyễn Thị Vân Anh:

Xin chào các cô, các chú. Cháu là một sinh viên kinh tế năm thứ hai. Cháu rất buồn và thất vọng khi đi đâu, về nhà đều có thể thấy hàng Trung Quốc. Cháu không bài trừ hay chê bai chất lượng những mặt hàng đó, ngược lại cháu thấy rất khâm phục ở chỗ có những sản phẩm nhìn lại rất đơn giản nhưng lại tiện ích, giá rẻ, có những tính năng mà cháu thấy tính sáng tạo của hàng Việt Nam còn thua kém. Cháu không hiểu hết tại sao những sản phẩm đó khá đơn giản nhưng các doanh nghiệp Việt Nam lại để hàng Trung Quốc lấn át như vậy? Cháu xin lấy ví dụ như những đồ chơi của trẻ em chẳng hạn.

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Tôi cảm ơn những nhận xét thẳng thắn và rất thích quan điểm của cháu. Công ty May 10 và các công ty khác của Việt Nam đang có những sự thay đổi, tôi tin là đã  và sẽ đáp ứng yêu cầu của bạn.
 
Tôi xin lấy một ví dụ, khi chúng tôi mở đại lý ở Lạng Sơn, nơi mà mọi người đổ xô đến để mua hàng Trung Quốc thì doanh số bán hàng vẫn đứng trong Top các đại lý của công ty.

Điều đó chứng tỏ hàng nội vẫn là sự lựa chọn của đông đảo người tiêu dùng, nếu chất lượng và giá cả phù hợp.
    
Thái Huyền My:

Buổi giao lưu này nói về “hàng nội” và người tiêu dùng Việt Nam. May 10 là một doanh nghiệp tiêu biểu và quen thuộc với thị trường. Nhưng tôi thấy một điểm không hợp lý là rất nhiều các nhãn hiệu của May 10 đều mang tên nước ngoài. Xin hỏi vì sao vậy?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Những nhãn hiệu có tên nước ngoài của May 10 đã sử dụng khoảng dăm năm nay, chỉ là bước chuyển đổi khi tâm lý thích hàng ngoại còn khá phổ biến.
 
Đến thời điểm này, trên thị trường nội địa về cơ bản  thì chúng tôi đã hoàn thành việc Việt hóa nhãn hiệu các sản phẩm của công ty với các dòng sản phẩm mang tên May 10 series
    
Phạm Thu Huyền:

Thời là khó khăn thì có lẽ khá rõ, nhưng nói về thế thì ông Doanh có thể phân tích rõ hơn "thế của hàng nội" có nghĩa là thế nào? Có phải là các doanh nghiệp Việt Nam nên hướng về thị trường nội địa không?

Ông Lê Đăng Doanh:

Như tất cả chúng ta đều biết tình hình kinh tế trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp, thị trường Mỹ, Nhật, châu Âu suy thoái.

Trong tình hình ấy việc chiếm lĩnh thị trường của hơn 86 triệu dân, trong đó 60% dân số trong độ tuổi làm việc là điều hết sức quan trọng. Vì vậy không phải tình cờ các hãng nước ngoài đổ xô vào Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường.

Hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt Nam đang tập trung vào thị trường nước ngoài mà không chú ý thích đáng thị trường trong nước nhưng khi thị trường nước ngoài đang bị suy thoái thì doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý quay lại thị trường nội địa.

Doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh hơn doanh nghiệp nước ngoài vì có thể nắm rõ hơn về văn hóa, nhu cầu, thị hiếu... người tiêu dùng Việt Nam hơn.

Doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp, phải tổ chức hợp lý khâu phân phối, giảm khâu trung gian không cần thiết. Các nhà phân phối Việt Nam phải bắt tay với nhau để có thể cạnh tranh và phát triển.

Tôi nghĩ trong thời hội nhập, không còn câu “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, vì hàng Việt Nam phải cạnh tranh ngang ngửa với hàng hóa nước ngoài. Nếu sản phẩm không tốt thì không thể cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và nước ngoài.

Nếu doanh nghiệp phân phối rút ngắn thời gian cung ứng, giá hợp lý thì sẽ chiếm lĩnh được thị trường tốt hơn, qua đó sẽ được được khách hàng, người tiêu dùng đón nhận.

Đào Tuyết Nhung:

Tôi thấy đây là một diễn đàn rất ý nghĩa, cổ vũ doanh nghiệp phát triển thương hiệu, tăng cường tiếp cận người tiêu dùng trong nước, khuyến khích người tiêu dùng đến với sản phẩm Việt Nam. Mỗi lần tôi đi mua hàng may mặc ở phố Chùa Bộc Hà Nội, tôi thấy những biển hiệu rất tự tin khi đề rõ: "Hàng Việt Nam", "Made in Vietnam". Thế nhưng, khi vào nhiều trung tâm thương mại cao cấp lại thấy thiếu vắng sự tự tin đó. Tại sao vậy?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Theo quan sát của bạn thì có thể đúng như vậy, tôi xin chia sẻ sự quan tâm đó.

Tuy nhiên, riêng sản phẩm May 10 thì đã có mặt tại những siêu thị lớn nhất Hà Nội như Vincom, BigC, Tràng Tiền..., tại những cửa hàng, đại lý của May 10.
 
Tới đây chúng tôi sẽ mở rộng mạng lưới phân phối tại nhiều siêu thị, trung tâm thương mại trên cả nước.

Anh Cuong:

Theo các diễn giả, thế nào là hàng Việt Nam? Những sản phẩm như bột giặt OMO, dầu gội Clear... do nước ngoài sản xuất tại Việt Nam có thể coi là hàng nội không?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Tôi nghĩ nếu bạn sử dụng những sản phẩm này thì cũng vẫn là những sản phẩm do chính người Việt sản xuất, và sẽ kích thích tiêu dùng nội địa.
    
Trịnh Hữu Việt:

Xin hỏi các diễn giả một số câu hỏi sau:

Tại sao hàng Việt Nam chưa có mạng lưới phân phối rộng rãi ở các tỉnh thành phố mà chỉ tập trung vào một số thành phố lớn? Tại sao hàng Việt Nam giá thành vẫn cao, mẫu mã theo chậm, chất lượng bình thường? Tại sao đội ngũ bán hàng chưa có tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ, cách bày trí sản phẩm? Các doanh nghiệp cần phải làm gì để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài khi họ thực sự thâm nhập vào thị trường trong nước? Dân số nước ta có đặc điểm là dân số trẻ, cần phát triển sản phẩm đáp ứng nhu cầu chủ yếu cho các đối tượng này. Làm thế nào có thể bỏ tâm lý sùng ngoại của giới trẻ hiện nay, tạo lòng tin các bạn trẻ với câu nói “người Việt phải tin hàng Việt”?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Lý do cơ bản nhất là do doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, ở đâu nhu cầu cao thì ở đó phân phối mạnh hơn.

Các thành phố lớn là nơi tập trung đông người, nhiều đối tượng với mức độ, nhu cầu khác nhau nên đương nhiên phải được ưu tiên trước.

Tuy nhiên, theo tôi doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường và thị phần nên sẽ dần  phát triển mạng lưới phân phối đến nhiều địa phương trên cả nước.
 
Doanh nghiệp nào cũng muốn thu hút sự quan tâm của các bạn trẻ bằng các sản phẩm phù hợp thị hiếu. Công ty chúng tôi có đội ngũ thiết kế chuyên thiết kễ mẫu mã dành cho các bạn trẻ, và rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các bạn để phục vụ các bạn trẻ ngày càng tốt hơn.
    
Bà Vũ Thị Hậu:

Khi một doanh nghiệp muốn mở hệ thống bán lẻ của mình, họ phải tính tới hiệu quả kinh doanh, nhất là các công ty cổ phần vì họ không có sự bảo trợ nào trong trường hợp kinh doanh thua lỗ.

Mức thu nhập của người dân ở nhiều tỉnh thành phố còn thấp hơn nhiều so với ở các thành phố lớn. Chính vì vậy mà việc mua sắm ở những nơi này rất hạn chế. Nếu mở kênh phân phối ở các tỉnh thành này, doanh nghiệp khó có thể lấy thu để bù đủ chi.

Trong một số doanh nghiệp chưa chú trọng cắt giảm chi phí đầu vào, chắc chắn giá đầu ra sẽ tăng. Nếu doanh nghiệp không đủ tiềm lực để đầu tư cho công nghệ thì mẫu mã và chất lượng bình thường là điều dễ hiểu.

Thực ra ở Việt Nam chưa có sự đào tạo cơ bản cho đội ngũ bán lẻ, mà chỉ học theo kiểu truyền miệng. Lực lượng lao động phổ thông phần lớn chỉ học hết lớp 12, chính vì vậy mà tính chuyên nghiệp trong bán hàng chưa cao.

Đối với doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, để cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, cần khắc phục những điểm yếu so với các doanh nghiệp ngoại. Ở Fivimart khi chưa có sự cạnh tranh của nước ngoài thì Fivi mart đã tạo ra được những thế mạnh riêng từ khi mới đi vào hoạt động, xây dựng bản sắc thương hiệu bán lẻ cho riêng mình củng cố hệ thống nhân lực, học tập kinh nghiệm nước ngoài.

Để tạo lòng tin của giới trẻ đối với hàng Việt Nam, chúng ta có thể đưa nội dung này vào chương trình giảng dạy trong các trường học các cấp: dùng hàng Việt là thể hiện tinh thần dân tộc, để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất trong nước phát triển.

Lê Quốc Uy:

Năm 2009, thị trường bán lẻ mở của hội nhập. Fivimart có lo ngại điều này không, nhất là khi những hàng nước ngoài lớn như Metro hay BigC đã và đang tạo những sức hút rất mạnh đối với người tiêu dùng?

Bà Vũ Thị Hậu:

Như các bạn đều đã biết các nhà bán lẻ và phân phối của nước ngoài đều mạnh hơn ta rất nhiều về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ quản lý điều hành. Cho nên để cạnh tranh được với họ thì  các nhà bán lẻ trong nước cần phải khắc phục những điểm yếu đó bằng  những cách riêng của mỗi doanh nghiệp, ngoài ra cần phải đặt ra đựơc chiếm lược kinh doanh rõ ràng .

Fivimart đã khắc phục những điểm yếu đó bằng cách củng cố hệ thống nhân lực, xây dựng bản sắc thương hiệu, học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.

Nguyễn Văn Sáng:

Theo tôi, năm 2009 sẽ là năm khó khăn cho toàn nền kinh tế và các doanh nghiệp nói chung. 1/1/2009 các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài sẽ bắt đầu xâm nhập thị trường. Hàng Việt Nam, sức cạnh tranh chưa cao, do đó việc giữ vững thị phần là khó khăn. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang có ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp nước ngoài, vì vậy năm 2009 các doanh nghiệp ít mở rộng đầu tư hơn (cắt giảm đầu tư cũng có thể). Đây cũng là một cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam cải cách, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tạo sức cạnh tranh. Ý kiến các diễn giả thế nào?

Bà Vũ Thị Hậu:

Vấn đề chỉ là thời gian, sớm hay muộn các doanh nghiệp ngoại cũng sẽ vào thị trường Việt Nam.

Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần hết sức tập trung nội lực để làm cho bản thân vững mạnh lên thì mới có thể đứng vững trên thương trường.

Thúy Nhi:

Chào chị Thanh Huyền, Tổng giám đốc May 10 là nữ nhưng hình như công ty chưa chú trọng nhiều đến sản phẩm cho phái nữ, trong khi chị em là người quyết định chi tiêu ở hầu hết các gia đình và có nhu cầu may mặc cao hơn hẳn nam giới?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Chào bạn, chính vì hiểu được điều này nên trong khoảng 4 năm gần đây công ty chúng tôi đã từng bước cho ra những dòng sản phẩm phục vụ chị em.

Hiện nay chúng tôi có cả sơ mi, veston, áo choàng,  quần âu... phục vụ cho chị em từ 18-55 tuổi, công chức văn phòng, doanh nhân, những đối tượng có thu nhập trung bình trở lên.

Tuy nhiên, so với sản phẩm dành cho nam giới thì đúng là còn khiêm tốn.

Chúng tôi đang có kế hoạch tăng tỷ trọng những dòng  sản phẩm dành riêng cho nữ giới, đáp ứng yêu cầu ngày cao của chị em.

Xin tiết lộ với bạn, hầu hết các sản phẩm may mặc tôi đang sử dụng cũng là của May 10.

Thời và thế cho hàng nội - Ảnh 7

Đỗ Hải Yến:

Chào chị Hậu, xin hỏi hiện tại Fivimart có bao nhiêu mặt hàng, trong đó bao nhiêu phần trăm là hàng nội? Tỷ trọng hàng nội chiếm khoảng bao nhiêu trong doanh số hàng tháng của hệ thống?

Bà Vũ Thị Hậu:

Hiện tại, Fivimart có trên 30.000 mặt hàng được bày bán trong các cửa hàng thuộc hệ thống. Nếu tính theo số lượng mặt hàng thì hàng nội chiếm 75 đến 80% trong hệ thống.

Nếu tính theo doanh số, tỷ trọng của hàng nội thay đổi tùy theo tháng. Ở những tháng bình thường, doanh số hàng nội chiếm khoảng 90%.

Ở thời điểm Tết, doanh số hàng ngoại tăng hơn vì nhiều sản phẩm trong nước chưa có nguồn cung tốt như rượu cao cấp, bánh kẹo cao cấp, một số loại quả như nho, táo...

Thangdh:

Theo như câu trả lời này của bà Hậu: "Như các bạn đều đã biết các nhà bán lẻ và phân phối của nước ngoài đều mạnh hơn ta rất nhiều về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ quản lý điều hành. Cho nên để cạnh tranh được với họ thì các nhà bán lẻ trong nước cần phải khắc phục những điểm yếu đó bằng những cách riêng của mỗi doanh nghiệp, ngoài ra cần phải đặt ra đựơc chiếm lược kinh doanh rõ ràng". Vậy thì chiến lược kinh doanh rõ ràng của Fivimart là gì thưa bà?

Bà Vũ Thị Hậu:

Một vài chiến lược kinh doanh của Fivimart đã được tôi đề cập tới trong phần trả lời trước.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú trọng sự phong phú, đa dạng của hàng hóa và phong cách phục vụ để tiến tới dịch vụ hoàn hảo nhất và đạt được sự hài lòng của khách hàng.

T.N.Kien:

Hình như sắp tới các cơ quan quản lý sẽ mở chiến dịch kêu gọi dùng hàng nội. Các ông bà dự báo thế nào về kết quả chiến dịch này?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Trước tiên tôi thấy đây là việc rất cấp thiết.

Nước ta có 86 triệu dân, cứ giả thiết nếu có 60% dân số tiêu dùng hàng may mặc nội địa thì sẽ tạo việc làm cho khoảng hơn 1 triệu lao động rồi.

Bên cạnh đó còn góp phần quảng bá rộng rãi, tạo chỗ đứng vững chắc cho các thương hiệu Việt.

Doanh nghiệp chỉ có thể có thương hiệu quốc tế khi đã có thương hiệu quốc gia, tạo thế và lực cho hàng nội trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt.
 
Kết quả của chiến dịch này cao hay thấp còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là nhận thức của người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên doanh nghiệp chúng tôi sẽ hết lòng ủng hộ việc làm này và tôi tin rằng sẽ thành công.
 
Trần Đức Mạnh:

Xin được hỏi bà Vũ Thị Hậu: năm 2009 Việt Nam mở cửa rộng hơn cho thị trường bán lẻ vậy hệ thống Fivimart đã có quyết sách như thế nào để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài, bên cạnh vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau?

Bà Vũ Thị Hậu:

Fivimart đã đạt ra những chiến lược kinh doanh cho riêng mình: xây dựng hệ thống cung cấp nguồn hàng ổn định, lựa chọn những nhà cung cấp "ruột" để có chính sách riêng; mở rộng hệ thống, tăng thị phần; lấy người tiêu dùng làm trung tâm để tạo ra những chương trình khuyến mại hấp dẫn.
   
Mai Chí Cương:

Fivimart là hệ thống siêu thị lớn tại Hà Nội, nhưng tôi cảm thấy để đưa được hàng vào hệ thống Fivimart là rất khó khăn, có đúng thế không, thưa bà Hậu?

Bà Vũ Thị Hậu:

Fivimart là hệ thống siêu thị đầu tiên tại miền Bắc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9001:2000. Chính vì vậy, quy trình đặt ra là rất nghiêm ngặt.

Để hàng vào được hệ thống Fivimart, nhà cung cấp cũng phải tuân theo quy trình đó, nhưng không phải là khó khăn. Nếu sản phẩm của bạn thực hiện được đầy đủ theo quy định của hàng hóa bán trong siêu thị, thì chúng tôi sẽ ký hợp đồng ngay.
    
Lê Quang Quỳnh:

Tôi thấy hiện nay giá nguyên liệu để sản xuất ra một số sản phẩm như xăng dầu đều xuống giá nhưng các sản phẩm bán ra chưa thấy hạ, ví dụ : mì ăn liền, các loại bánh kẹo... bà Hậu có thể cho tôi biết lý do?

Bà Vũ Thị Hậu:

Theo lý giải của các nhà sản xuất, thường nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm được dự trữ từ 3 - 6 tháng. Chính vì vậy, khi các nguyên liệu này giảm giá, nhà sản xuất vẫn phải sử dụng nguyên liệu tồn kho cho việc sản xuất.
 
Tôi cũng hy vọng trong thời gian tới, một loạt sản phẩm cũng sẽ được giảm giá, ví dụ các sản phẩm như bạn vừa nói tới.

Nếu giá bột đang được giữ ở mức giảm so với trước 30%, dầu ăn giảm 30%, thì chắc chắn nhà sản xuất mì ăn liền cũng phải cân đối lại để giảm giá bán.
    
Nguyễn Bảo Ngọc:

Làm thế nào để phân biệt sản phẩm chính hiệu của May 10 với hàng nhái? Vì thỉnh thoảng có hàng “May 10” bày bán trên vỉa hè đại hạ giá với mức chỉ 20 ngàn/áo sơ mi nam, nhất là ở các tỉnh miền núi.

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Chúng tôi luôn ý thức được phải bảo vệ người tiêu dùng trong nước. Cụ thể từ năm 2000, trên sản phẩm của May 10 đã có nhãn chống hàng giả. Năm 2001, chúng tôi tiếp tục gắn sợi chống hàng giả trên sản phẩm (được sản xuất tại Mỹ).

Bạn có thể rất dễ dàng nhận biết sản phẩm chính hãng của May 10 bằng cách nhìn vào tem chống hàng giả được gắn trên nhãn giá của sản phẩm.

 Tại tất cả các cửa hàng của chúng tôi đều có hướng dẫn phân biệt hàng thật – giả. Bạn nên chú ý đến điều này khi mua hàng.

Đỗ Xuân Khánh:

Xin hỏi chị Huyền thế này có được không: cá nhân chị sử dụng hàng may mặc nhãn nào, của trong nước hay nước ngoài, sản phẩm của May 10 chiếm bao nhiêu phần trăm?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Đa số hàng may mặc tôi đang sử dụng là của May 10, như sơmi, vest, quần âu, áo choàng và cả váy nữa, khoảng 70%.
 
Chỉ có những sản phẩm hiện May 10 chưa sản xuất thì tôi mới dùng của hãng khác nhưng  vẫn là hàng Việt Nam như của Hanosimex, Phương Đông, Hòa Bình, Tiền Tiến, Đồng Tiến... và tôi rất hài lòng với sự lựa chọn của mình.

Tôi khẳng định những sản phẩm nội này có chất lượng không thua kém hàng ngoại nổi tiếng đang bán tại Việt Nam.
 
Tuy nhiên, đôi khi tôi vẫn sử dụng đồ ngoại, vì không phải sản phẩm nào cũng tìm được ở những nhà sản xuất trong nước.
    
Phan Thu Thủy:

Chào chị Huyền. May 10 là một trong số ít doanh nghiệp đã lập chiến lược xây dựng thương hiệu từ khá sớm (tôi nhớ không nhầm là cách đây gần 15 năm rồi). Hẳn May 10 ý thức rõ vai trò của thương hiệu trong việc tiếp cận thị trường. Chị có thể chia sẻ một số kinh nghiệm trong vấn đề này không?

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền:

Rất cảm ơn bạn, phải là người rất quan tâm đến công ty thì bạn mới hiểu rõ như vậy.
 
Hơn 20 năm nay, chúng tôi đã rất quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu. Và từ năm 1998 trở lại đây thì May 10 đã trở thành một thương hiệu mạnh.
 
Kinh nghiệm của chúng tôi không mới, nhưng để thực hiện thì không dễ. Sự hài lòng của người tiêu dùng không chỉ được coi trọng khi chúng tôi bán sản phẩm mà đã được coi trọng ngay từ ý tưởng đến thiết kế, sản xuất và phân phối.
 
Nguyên tắc này đã thấm đến toàn bộ mọi thành viên trong công ty và "làm hài lòng khách hàng" chính là niềm vui của mỗi người trong May 10.
 
Những điều này chính là "bí quyết" để May 10 có chỗ đứng vững chắc trong lòng người tiêu dùng Việt Nam.

Bà Hoàng Thủy Chung, Phó tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam:

Buổi giao lưu trực tuyến đã khép lại, nhưng những tâm huyết của các đại diện doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế còn để lại cho chúng ta những băn khoăn về vai trò của người tiêu dùng đối với vận mệnh của nền kinh tế.

Hơn 400 câu hỏi của độc giả đã thể hiện rõ sự quan tâm của dư luận đối với chủ đề này. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thể hiện cam kết hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện dịch vụ, vì người tiêu dùng.

Trong hơn 2 tiếng giao lưu, chúng tôi mới chỉ dừng ở việc "xới" lên những vấn đề đáng quan tâm giữa người tiêu dùng trong nước và các sản phẩm nội địa. Từ quan điểm đến thực thi còn một khoảng cách, VnEconomy sẽ còn tiếp tục đặt vấn đề này đối với các chuyên gia, doanh nghiệp và người tiêu dùng, để người Việt và hàng Việt có thể “bắt tay” nhau.

VnEconomy xin chân thành cảm ơn các diễn giả, quý bạn đọc đã tham gia vào buổi giao lưu này!