Xuất khẩu gạo, hạt tiêu sa sút
Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 9 tháng qua giảm hơn 6%, trong khi khối lượng xuất khẩu tăng 4,5%
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 9 tháng qua giảm hơn 6%, trong khi khối lượng xuất khẩu tăng 4,5%. Khối lượng xuất khẩu hạt tiêu cũng giảm tới gần 17%.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố số liệu thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2012 ước đạt 2,3 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 9 tháng qua ước đạt 20,4 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính vẫn giữ được sự ổn định, ước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản đều có xu hướng tăng, ngoại trừ gạo, cao su và hạt tiêu.
Lượng gạo xuất khẩu 9 tháng năm nay ước đạt 6,2 triệu tấn, đạt giá trị 2,78 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 4,5% về lượng nhưng giảm 6,1% về giá trị. Giá xuất khẩu gạo bình quân chung đạt 452 USD/tấn, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường xuất khẩu gạo năm nay có nhiều thay đổi. Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam từ đầu năm đến nay, với mức tăng gấp 5,7 lần về lượng và 4,8 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, nhiều thị trường lớn khác lại sụt giảm cả về lượng và giá trị như Philippines, Indonesia và Singapore.
Sau một năm đạt mức tăng trưởng cao, hiện tại xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu có xu hướng giảm cả về lượng lẫn giá trị. Ước lượng hạt tiêu xuất khẩu 9 tháng đạt 91.000 tấn, kim ngạch 627 triệu USD, so cùng kỳ năm trước giảm 16,7% về lượng và 0,9% về giá trị. Các thị trường nhập khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam vẫn là Hoa Kỳ (chiếm 14% thị phần), Đức (11%) và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) (9%)...
Về mặt hàng cà phê, trong 9 tháng, tổng khối lượng xuất khẩu ước đạt 1,36 triệu tấn, kim ngạch 2,85 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 36,8% về lượng và 29,8% về giá trị.
Hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam là Đức (chiếm tỷ trọng giá trị 12,3% thị phần) và Hoa Kỳ (chiếm 12,2%) đều tăng trưởng khá cả về lượng và giá trị. Đáng chú ý nhất là thị trường Indonesia tăng trưởng đột biến với mức tăng lần lượt gấp gần 9 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Thời gian tới, xuất khẩu cà phê được dự báo có thể giảm do hạn chế nguồn cung và sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào những tháng cuối năm.
Mặt hàng chè tiếp tục giữ được ổn định, tăng trưởng ở hầu hết các thị trường lớn. Lượng chè xuất khẩu 9 tháng ước đạt 105.000 tấn, với kim ngạch 161 triệu USD, tăng 8,8% về lượng và 8,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu bình quân đạt 1.508 USD/tấn, ổn định so với mức giá xuất khẩu của năm 2011 là 1.505 USD/tấn.
Khối lượng chè xuất khẩu những tháng còn lại được dự báo vẫn duy trì ở mức ổn định.
Với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, ước kim ngạch xuất khẩu chín tháng đạt gần 3,4 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó Hoa Kỳ tăng 30,6%, Trung Quốc (14,4%), và Nhật Bản (17,2%). Trong những tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Về nhóm thủy sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu 9 tháng ước đạt 4,5 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2011. Hoa Kỳ vẫn duy trì là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 19% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (15,1%) và Hàn Quốc (7%)...
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố số liệu thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2012 ước đạt 2,3 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 9 tháng qua ước đạt 20,4 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính vẫn giữ được sự ổn định, ước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản đều có xu hướng tăng, ngoại trừ gạo, cao su và hạt tiêu.
Lượng gạo xuất khẩu 9 tháng năm nay ước đạt 6,2 triệu tấn, đạt giá trị 2,78 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 4,5% về lượng nhưng giảm 6,1% về giá trị. Giá xuất khẩu gạo bình quân chung đạt 452 USD/tấn, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường xuất khẩu gạo năm nay có nhiều thay đổi. Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam từ đầu năm đến nay, với mức tăng gấp 5,7 lần về lượng và 4,8 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, nhiều thị trường lớn khác lại sụt giảm cả về lượng và giá trị như Philippines, Indonesia và Singapore.
Sau một năm đạt mức tăng trưởng cao, hiện tại xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu có xu hướng giảm cả về lượng lẫn giá trị. Ước lượng hạt tiêu xuất khẩu 9 tháng đạt 91.000 tấn, kim ngạch 627 triệu USD, so cùng kỳ năm trước giảm 16,7% về lượng và 0,9% về giá trị. Các thị trường nhập khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam vẫn là Hoa Kỳ (chiếm 14% thị phần), Đức (11%) và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) (9%)...
Về mặt hàng cà phê, trong 9 tháng, tổng khối lượng xuất khẩu ước đạt 1,36 triệu tấn, kim ngạch 2,85 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 36,8% về lượng và 29,8% về giá trị.
Hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam là Đức (chiếm tỷ trọng giá trị 12,3% thị phần) và Hoa Kỳ (chiếm 12,2%) đều tăng trưởng khá cả về lượng và giá trị. Đáng chú ý nhất là thị trường Indonesia tăng trưởng đột biến với mức tăng lần lượt gấp gần 9 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Thời gian tới, xuất khẩu cà phê được dự báo có thể giảm do hạn chế nguồn cung và sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào những tháng cuối năm.
Mặt hàng chè tiếp tục giữ được ổn định, tăng trưởng ở hầu hết các thị trường lớn. Lượng chè xuất khẩu 9 tháng ước đạt 105.000 tấn, với kim ngạch 161 triệu USD, tăng 8,8% về lượng và 8,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu bình quân đạt 1.508 USD/tấn, ổn định so với mức giá xuất khẩu của năm 2011 là 1.505 USD/tấn.
Khối lượng chè xuất khẩu những tháng còn lại được dự báo vẫn duy trì ở mức ổn định.
Với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, ước kim ngạch xuất khẩu chín tháng đạt gần 3,4 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó Hoa Kỳ tăng 30,6%, Trung Quốc (14,4%), và Nhật Bản (17,2%). Trong những tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Về nhóm thủy sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu 9 tháng ước đạt 4,5 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2011. Hoa Kỳ vẫn duy trì là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 19% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (15,1%) và Hàn Quốc (7%)...