Công nghiệp năm 2014 là động lực và đầu tàu tăng trưởng chung. Nhưng chủ yếu về tốc độ tăng, còn chất lượng vẫn hạn chế
Tín hiệu khả quan của công nghiệp năm 2014 được nhận diện dưới các góc độ khác nhau.
Công nghiệp năm 2014 đã có những tín hiệu khả quan, tăng cao lên trở lại là động lực và đầu tàu tăng trưởng chung. Nhưng chủ yếu về tốc độ tăng, còn chất lượng vẫn hạn chế.
Tín hiệu khả quan của công nghiệp năm 2014 đã được nhận diện dưới các góc độ khác nhau.
Bốn góc độ nhìn nhận sự tăng trưởng
Ở góc độ thứ nhất, tốc độ tăng của chỉ số sản xuất công nghiệp năm nay đã cao hơn của các năm trước
(biểu đồ 1)
.
Công nghiệp Việt Nam vẫn sống nhờ gia công 1
Ở góc độ thứ hai, tăng trưởng chỉ số sản xuất công nghiệp có xu hướng cao lên qua các quý trong năm nay
(biểu đồ 2)
.
Từ biểu đồ 2, có thể tính ra, nếu quý 1 tăng 5,2%, thì quý 2 tăng 6,4%, quý 3 tăng 8,5%, quý 4 tăng khoảng 9,0% - tức là tốc độ tăng đã có xu hướng dần dần trở lại các thời kỳ trước kia, dần dần trở lại là động lực và đầu tàu tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế.
Công nghiệp Việt Nam vẫn sống nhờ gia công 2
Tăng trưởng cao lên của công nghiệp từ năm ngoái đến nay đã góp phần làm cho tăng trưởng GDP thoát đáy vượt dốc đi lên trong 2 năm 2013, 2014, tạo tiền đề để tăng trưởng kinh tế phục hồi theo kế hoạch năm 2015, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011- 2020.
Ở góc độ thứ ba, tăng trưởng công nghiệp cao hơn đạt được ở cả 4 ngành công nghiệp cụ thể
(biểu đồ 3)
.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp, ngành có “tính chất công nghiệp” rõ nhất, ngành mà tỷ trọng của nó trong toàn ngành được coi là nước công nghiệp hay chưa (nhiều nước khai thác dầu thô chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn ngành công nghiệp và trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời có GDP bình quân đầu người rất cao, nhưng vẫn chưa được coi là nước công nghiệp là vì thế) - đã tăng khá cao, cao hơn 2 năm trước (năm 2012 tăng 5,5%, năm 2013 tăng 7,6%).
Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng trưởng cao đã góp phần giữ được giá điện tương đối ổn định, hạn chế tình trạng cắt điện, mất điện trong những năm trước đây.
Ngành công nghiệp khai khoáng năm nay tăng 2,7%, không còn giảm 0,6% như năm trước, công nghiệp không những tăng trưởng cao lên về tốc độ, mà còn có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành công nghiệp khi các ngành này có tốc độ tăng trưởng khác nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp còn được biểu hiện trên một số điểm cụ thể.
Những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động trong điều kiện Việt Nam có thế mạnh là có số lượng lao động dồi dào do dân số đang trong thời kỳ có cơ cấu dân số vàng, có giá cả rẻ; những ngành có sản phẩm tiêu thụ khá, đều tăng trưởng với tốc độ cao.
Ngành dệt may tăng với tốc độ cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng chung, nhờ xuất khẩu duy trì được tốc độ tăng cao (11 tháng đạt gần 19 tỷ USD, tăng tới 16,9% so với cùng kỳ năm trước, khả năng năm 2014 sẽ là lần đầu tiên và cũng là mặt hàng thứ hai trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vượt qua mốc 20 tỷ USD).
Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan có tốc độ tăng gần gấp ba lần tốc độ tăng chung, nhờ xuất khẩu giày dép các loại 11 tháng đạt gần 9,3 tỷ USD, tăng tới 23,7% so với cùng kỳ năm trước, khả năng cả năm 2014 lần đầu tiên sẽ vượt qua mốc 10 tỷ USD.
Nét mới là xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may da giày sau 11 tháng đã đạt trên 1 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước, có quy mô lớn hơn mức cả năm 2013; như vậy, năm 2014 sẽ lần đầu tiên mặt hàng này tham gia “câu lạc bộ” các mặt hàng kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD trở lên.
Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng khá cao, gấp trên 4 lần tốc độ tăng chung của toàn ngành công nghiệp. Ngành này tăng cao nhờ xuất khẩu các sản phẩm đạt quy mô lớn và tăng so với cùng kỳ, có loại tăng khá cao.
Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, điện thoại các loại và linh kiện, máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 11 tháng đạt khoảng 34,5 tỷ USD... Đáng lưu ý, ngành sản xuất vật liệu xây dựng đã tăng cao hơn tốc độ tăng chung.
Đó vừa là kết quả, vừa là tiền đề của thị trường bất động sản, mà thị trường bất động sản hiện là một trong những điểm nghẽn lớn nhất, kéo dài nhất của nền kinh tế hiện nay, là yếu tố tác động đến nợ xấu, đến tăng trưởng tín dụng, đến lao động việc làm, thu nhập sức mua có khả năng thanh toán...
Ở góc độ thứ tư, xét về các yếu tố ảnh hưởng, thì một số nhân tố mới đã có xu hướng tích cực. Tốc độ tăng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo đã cao lên, cao hơn trước đây và cao hơn tốc độ tăng của chỉ số sản xuất.
Tốc độ tăng tồn kho sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo tại thời điểm gần đây đã giảm so với cùng thời điểm các tháng trước; đã chậm lại so với cuối năm trước và đã trở lại mức bình thường, nhờ tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (nếu loại trừ yếu tố tăng giá) đã cao hơn trước.
Doanh nghiệp đăng ký mới đã tăng lên về số lượng doanh nghiệp, về số vốn; số doanh nghiệp trở lại hoạt động cũng đã tăng lên... Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp tăng cao hơn tốc độ chung và tăng cao hơn tốc độ tăng của xuất khẩu nông, lâm - thuỷ sản (tương ứng là 14,1% so với 13,7% và 12,1%). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt kỷ lục mới và tập trung cho công nghiệp.
Gia công là chính
Bên cạnh tín hiệu khả quan về số lượng (tốc độ tăng sản xuất), thì chất lượng tăng trưởng công nghiệp (và xây dựng) còn thấp, việc cải thiện còn chậm, trong khi mục tiêu tổng quát biến Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đang đến gần.
Chất lượng tăng trưởng biểu hiện ở hiệu quả đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả đầu tư biểu hiện ở hệ số ICOR (ICOR cao thì hiệu quả thấp, ICOR tăng thì hiệu quả đầu tư giảm; ngược lại ICOR thấp thì hiệu quả cao, ICOR giảm thì hiệu quả tăng).
Bình quân năm trong thời kỳ 2011- 2013, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của công nghiệp - xây dựng là 43,8%; tốc độ tăng GDP của nhóm ngành này là 5,97%; suy ra ICOR của nhóm ngành này là 7,3 lần, cao hơn nhiều so với hệ số ICOR của toàn bộ nền kinh tế (5,6 lần).
Tính riêng cho ngành công nghiệp thì tỷ lệ vốn đầu tư/GDP là 38,9%, tốc độ tăng GDP công nghiệp là 6,57%/năm, tính ra hệ số ICOR là trên 5,9 lần - tuy có thấp hơn của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, nhưng vẫn còn cao hơn của toàn bộ nền kinh tế.
Năm 2014 tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của công nghiệp có thể cao hơn, tốc độ tăng GDP công nghiệp cũng cao hơn, nên hiệu quả đầu tư cải thiện chưa nhiều.
Năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng năm 2013 là 124,1 triệu đồng/người, trong đó của công nghiệp là 151,4 triệu đồng/người, tuy cao hơn mức năng suất chung (68,7 triệu đồng/người), nhưng nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ đạt tương ứng là 5.922 - 7.225 USD/người, vẫn còn thấp xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2014 ước cao hơn, nhưng chưa nhiều.
Cơ cấu sản xuất công nghiệp cũng có những hạn chế. Nhìn tổng quát, công nghiệp của Việt Nam vẫn còn mang nặng tính gia công, lắp ráp, khai thác nguyên liệu, tận dụng lợi thế của giá nhân công rẻ. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển.
Tổng số doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng cả nước hiện có 1.303 (trong đó linh kiện phụ tùng kim loại 556), nhưng phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ kỹ thuật còn thấp; tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước của các nhà lắp ráp tại Việt Nam đối với công nghiệp công nghệ cao mới có 10%, sản xuất thiết bị đồng bộ 20%, ôtô 15 - 40%... Do vậy, nhập siêu nguyên phụ liệu còn lớn.
Công nghiệp phục vụ nông nghiệp (sản xuất nông cụ, chế biến sản phẩm...) còn ít; có xu hướng tăng tỷ trọng GDP công nghiệp mà chưa coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là trọng điểm số một.
Tỷ trọng của kinh tế trong nước trong tổng số của cả nước còn thấp (chỉ bằng dưới một nửa về giá trị sản xuất công nghiệp, dưới 1/3 về tổng kim ngạch xuất khẩu) và nhập siêu hoàn toàn do khu vực kinh tế trong nước.
Hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới
Nghị quyết số 59-NQ/TW nhấn mạnh quan điểm cùng với tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên và phải phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, kết hợp với quốc phòng-an ninh trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa...
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 Nghị quyết do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức diễn ra sáng 16/9. Tổng Bí thư Tô Lâm dự và có bài phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị.
Tháo gỡ vướng mắc triển khai các dự án trong thời gian chờ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia
Ngày 15/9/2025, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 66.3/2025/NQ-CP nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc triển khai các dự án đất đai trong thời gian chờ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 281/NQ-CP, khởi động Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của chương trình không chỉ là nâng cao chất lượng giáo dục mà còn mở rộng tiếp cận công bằng cho tất cả mọi người, từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học.
Nghị quyết số 72-NQ/TW: Đột phá trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 70-NQ/TW, Nghị quyết số 71-NQ/TW, Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị diễn ra vào sáng 16/9, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long thông tin chuyên đề Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: