Liên kết hạ tầng, chính sách để thúc đẩy vùng trung du và miền núi Bắc Bộ phát triển
Lợi thế của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả, vẫn là "vùng trũng" trong phát triển kinh tế và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn chưa chặt chẽ...
Trên đây là nhận định của ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại diễn đàn “Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững vùng trung du và miền núi Bắc Bộ” ngày 27/9.
VẪN LÀ "VÙNG TRŨNG" PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Theo ông Phòng, trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế, thuận lợi kết nối giao thương với Trung Quốc và ASEAN.
Trong đó, tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biên mậu, là vùng giàu tài nguyên, khoáng sản, thuận lợi phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản, hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc; đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng.
Tuy nhiên, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả, vẫn là "vùng trũng" trong phát triển kinh tế và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn chưa chặt chẽ.
Phân tích kỹ hơn, ông Trương Đức Trọng, Chuyên gia dự án PCI, Ban pháp chế, VCCI cho biết trong khảo sát năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cho thấy, chỉ số cơ sở hạ tầng của khu vực miền núi Bắc Bộ có điểm số thấp nhất so với các khu vực khác trên toàn quốc, là một trong những bất lợi lớn trong việc thu hút nhà đầu tư đến địa phương.
Một số khó khăn chính của cơ sở hạ tầng là khu công nghiệp hạn chế, chất lượng đường bộ chưa có bước chuyển biến đáng kể, chất lượng cung cấp điện còn rất nhiều vấn đề. Cùng với đó, chất lượng viễn thông và internet cũng không cao.
Một yếu tố nữa được nhà đầu tư quan tâm đó là điều kiện kinh tế gồm quy mô thị trường, thu nhập dân cư, sự phát triển các chuỗi cung ứng... Nhưng đây là một điều bất lợi của các tỉnh miền núi Bắc Bộ khi GDP bình quân đầu người theo thống kê trong vùng chỉ nhỉnh hơn khu vực Tây Nguyên.
Còn nhiều chỉ tiêu kinh tế khác của vùng cũng tương đối khiêm tốn so với các vùng khác, như số doanh nghiệp đang hoạt động, số lượng các siêu thị, chợ, trung tâm thương mại, các khu công nghiệp, khu chế xuất...
Riêng về mức độ phát triển của doanh nghiệp địa phương trên địa bàn thì tương đối thấp so với mức độ trung bình cả nước. Một số địa phương có giá trị tương đối gồm Lào Cai, Thái Nguyên với khoảng 4 doanh nghiệp/1000 dân, gần với giá trị trung bình của vùng Đồng bằng sông Hồng (6 doanh nghiệp/1000 dân).
Đáng chú ý, thu hút vốn FDI cũng không phải thế mạnh của vùng khi sự chênh lệch rất rõ rệt. Qua khảo sát, hiện nay chỉ có Bắc Giang là tam giác thu hút vốn FDI của vùng cùng với Thái Nguyên, Phú Thọ. Ở các địa phương còn lại có rất ít các dự án FDI.
Một thách thức nữa với các địa phương trong vùng đó là người lao động có xu hướng di cư đi khỏi địa phương. Vấn đề này biểu hiện rõ rệt ở một số địa phương như Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Chất lượng lao động là một trở ngại của vùng, rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn lao động.
Bên cạnh những khó khăn nội tại, theo ông Trọng, cơ chế, chính sách địa phương cũng cản trở sự phát triển của vùng. Nếu nhìn nhận các chỉ số, thành phần cụ thể của PCI, thì khu vực miền núi Bắc bộ còn có những bất lợi.
Đó là việc tiếp cận đất đai khó hơn so với khu vực khác trên toàn quốc. Chi phí thời gian giải quyết thủ tục hành chính còn lớn. Chi phí không chính đang xếp cuối so với toàn quốc. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng xếp cuối cùng so với các địa phương và vùng khác trên toàn quốc…
CẦN CÁC GIẢI PHÁP LIÊN KẾT ĐỒNG BỘ
Muốn cải thiện những hạn chế trên, ông Trọng cho rằng cần phải tăng cường liên kết ngành trong các hoạt động về môi trường đầu tư kinh doanh tại địa phương.
Để làm được điều này, các địa phương trong vùng cần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Đồng thời liên kết trong thương mại, liên kết về hạ tầng giao thông, logistics và phát triển chuỗi cung ứng. Liên kết trong đề xuất chính sách. Liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực.
Ông Phòng cũng cho rằng liên kết chặt chẽ không chỉ chính quyền, mà ngay cả doanh nghiệp cùng chung tay xây dựng một quy hoạch chung cho toàn vùng. Liên kết để hình thành và phát triển hệ thống đô thị kết nối nội vùng với các đô thị lớn vùng đồng bằng sông Hồng...
Liên kết để hình thành một số cực tăng trưởng và trung tâm kinh tế của vùng, song hành với phát triển hành lang kinh tế, gắn với không chỉ hệ thống giao thông kết nối, mà còn với tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong vùng, tránh cạnh tranh lẫn nhau bằng mọi giá.
Ở góc độ khác, ông Phạm Hoài Chung, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải, Bộ Giao thông Vận tải nhấn mạnh đến việc hoàn thiện hạ tầng giao thông, tạo động lực phát triển kinh tế vùng.
Để phát huy thế mạnh của vùng cần xác định việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông (quốc gia, vùng, địa phương) phải đồng bộ và phù hợp với đặc điểm, tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế của vùng để giao thông vừa là động lực thúc đẩy, vừa là cơ hội đầu tư phát triển song hành với tiềm năng kinh tế vùng.
Cụ thể, phát triển hệ thống đường cao tốc sẽ liên kết các địa phương với nhau đi lên các cửa khẩu và về với vùng thủ đô Hà Nội để đi ra cảng biển và các vùng khác trong cả nước, đồng thời sẽ kết nối đến các phương thức vận tải đường dài như đường sắt, đường biển.
Ngoài ra, đẩy mạnh hệ thống cảng hàng không, chú trọng đầu tư đường sắt kết nối với vận tải biển giữa vùng và các vùng lân cận, tạo thuận lợi cho lưu thông và nâng cao giá trị hàng hoá của vùng.