Tăng cường công tác bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc bộ
14 tỉnh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ chiếm hơn 37% tổng diện tích rừng cả nước đang đối mặt với nhiều vướng mắc trong công tác quản lý, bảo về và phát triển rừng…
Ngày 9/5 tại Lào Cai, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tỉnh uỷ Lào Cai tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Hội nghị nhằm đánh giá thực trạng và trao đổi những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trong giai đoạn tới, phục vụ công tác sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
TÌM Ý TƯỞNG MỚI, CÁCH LÀM SÁNG TẠO ĐỂ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Phát biểu chào mừng Hội nghị, đồng chí Đặng Xuân Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai cho biết, tại Hội nghị này, tỉnh Lào Cai mong muốn cùng với các bộ, ngành, các địa phương trong vùng, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia thảo luận, cùng góp ý kiến, đề xuất với Trung ương những ý tưởng mới, cách làm sáng tạo, giải pháp chiến lược trong công tác quản lý, bảo vệ phát triển rừng để tài nguyên rừng trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế phù hợp với xu thế phát triển lâm nghiệp thế giới, là nguồn sinh kế bền vững của nhân dân và đóng vai trò quan trọng trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 13-CT/TW nêu rõ Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ bao gồm 14 tỉnh, với tổng diện tích trên 95,0 ngàn km2 (chiếm 28,75% của cả nước), diện tích đất có rừng gần 5,4 triệu ha, chiếm khoảng 37% diện tích đất có rừng cả nước; tỷ lệ che phủ là 54,02%, cao hơn nhiều mức bình quân chung toàn quốc (42%)…
“Đây là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của cả nước; có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ; có tiềm năng, lợi thế về nông, lâm nghiệp, thuỷ điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu”, Trưởng ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh.
Tuy nhiên, vùng có nhiều địa phương thuộc diện khó khăn, chỉ 1/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người năm 2022 trên bình quân cả nước (tỉnh Thái nguyên GRDP: 4.831USD/người/năm); 7/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người nằm trong nhóm 10 tỉnh thấp nhất cả nước; là vùng tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với trên 30 dân tộc cùng sinh sống; hạ tầng phát triển còn chậm.
Trong 5 năm qua, các địa phương trong vùng đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Theo đó, diện tích rừng trồng tăng lên; diện tích rừng tự nhiên, hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học được bảo vệ khá tốt, độ che phủ rừng cao hơn trung bình cả nước trên 12% (đạt 54,2%), tăng 0,6% so với trước khi có Chỉ thị 13. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ phát triển khá. Các cơ chế, chính sách về phát triển lâm nghiệp từng bước được hoàn thiện.
Đặc biệt, các địa phương trong khu vực đã nỗ lực khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu trong Chỉ thị số 13-CT/TW như công tác quy hoạch, bảo vệ, phát triển rừng được thực hiện đồng bộ với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; các dự án thủy điện, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... trên địa bàn được thực hiện đúng quy định của pháp luật; việc chuyển đổi rừng tự nhiên, rừng nghèo kiệt sang trồng rừng, sản xuất nông nghiệp được kiểm soát chặt chẽ…
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh cũng chỉ ra những hạn chế, vướng mắc cần tiếp tục khắc phục.
Đó là vẫn còn để xảy ra các điểm nóng về phá rừng, khai thác lâm sản trái pháp luật, đặc biệt là phá rừng tự nhiên; việc phân cấp quản lý rừng đặc dụng hiện nay vẫn còn bất cập.
Kinh phí chi cho quản lý, bảo vệ và bảo tồn thiên nhiên hạn hẹp, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn ngân sách nhà nước, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích từ du lịch sinh thái, sử dụng môi trường rừng, phát triển kinh tế dưới tán rừng.
Thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật trong việc chuyển mục đích sử dụng đất rừng gây khó khăn cho nhiều địa phương…
7 GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh ghi nhận sự chuẩn bị tích cực, chu đáo của Ban Tổ chức, sự phối hợp trách nhiệm, hiệu quả của Tỉnh uỷ Lào Cai; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cảm ơn các ý kiến phát biểu, đóng góp tâm huyết, trách nhiệm tại Hội nghị. Đồng chí Trần Tuấn Anh đồng tình với các kiến nghị, đề xuất và nhấn mạnh một số nội dung.
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết dứt điểm các tồn đọng, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp có nguồn gốc từ nông lâm trường quốc doanh; tình trạng di dân tự do.
Thứ hai, có cơ chế, chính sách đủ mạnh để phát triển kinh tế rừng: đổi mới chính sách đầu tư, hỗ trợ và ưu đãi đầu tư cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; phát triển kết cấu hạ tầng lâm nghiệp, phát triển công nghiệp sản xuất, chế biến gỗ và sản phẩm gỗ; phát triển du lịch sinh thái gắn với bảo vệ và phát triển rừng.
Thứ ba, các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, phát triển bền vững dịch vụ môi trường rừng; khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách cho thị trường tín chỉ cac-bon ở Việt Nam.
Thứ tư, bảo vệ toàn bộ diện tích rừng hiện có, đặc biệt là các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng tự nhiên, bảo đảm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết quốc tế tại COP26 về biến đổi khí hậu.
Thứ năm, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ mới trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cần có chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển giống, trồng rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cơ giới hóa trong lâm nghiệp, chế biến gỗ và lâm sản.
Thứ sáu, về an sinh, tạo việc làm bền vững cho người dân khu vực có rừng.
Thứ bảy, hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.