Những điều kiện nào cho giao dịch ký quỹ?
Các công ty chứng khoán được phép cho nhà đầu tư vay vốn để mua chứng khoán, nhưng phải đảm bảo nhiều điều kiện
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã chính thức công bố dự thảo lần 1 thông tư hướng dẫn hoạt động giao dịch mua chứng khoán ký quỹ, lấy ý kiến các thành viên thị trường để hoàn thiện và trình Bộ Tài chính ban hành.
Theo văn bản này, các công ty chứng khoán sẽ được phép cho các nhà đầu tư vay vốn để tham gia thị trường, nhưng phải đảm bảo các điều kiện cụ thể.
Theo nội dung dự thảo, giao dịch mua chứng khoán ký quỹ được giải thích là việc khách hàng vay một phần tiền theo tỷ lệ nhất định của công ty chứng khoán để thực hiện mua chứng khoán, đồng thời thế chấp chứng khoán đã mua tại công ty chứng khoán.
Để được thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải đảm bảo loạt điều kiện về vốn chủ sở hữu, về sự tuân thủ các quy định trong hoạt động trước đó, có tỷ lệ an toàn vốn khả dụng không dưới 200% trong 6 tháng liên tục, phải quản lý tách biệt tài sản của khách hàng và chỉ được sử dụng tài sản thuộc sở hữu của chính mình để thực hiện nghiệp vụ này…
Cổ phiếu được giao dịch mua chứng khoán ký quỹ phải là cổ phiếu niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán, có thời gian niêm yết từ 6 tháng trở lên; là cổ phiếu có giá trị sổ sách lớn hơn mệnh giá tính theo báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất và báo cáo tài chính quý gần nhất của các công ty niêm yết; cổ phiếu của công ty niêm yết có thời gian thành lập và hoạt động tối thiểu 5 năm, có vốn điều lệ tối thiểu là 20 tỷ, không có lỗ trong năm hoạt động liền trước, có tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu tại thời điểm cuối năm tối thiểu là 3%; cổ phiếu không thuộc diện bị kiểm soát hoặc dừng giao dịch.
Ngoài ra, công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay giao dịch mua ký quỹ đối với cổ phiếu do chính công ty phát hành; cổ phiếu do chính công ty bảo lành phát hành cho đến hết ba (3) tháng sau khi hoàn tất đợt phát hành; cổ phiếu của công ty sở hữu từ 50% vốn điều lệ của công ty chứng khoán.
Nhà đầu tư tham gia dịch vụ này phải là khách hàng đã có thời gian mở tài khoản giao dịch môi giới tại công ty chứng khoán không dưới 3 tháng và có tổng giá trị giao dịch chứng khoán tối thiểu trước đó không thấp hơn 50% tổng giá trị các khoản vay công ty chứng khoán.
Khi thực hiện các giao dịch ký quỹ, dự thảo đưa ra quy định công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay để mua quá 5% tổng số cổ phiếu lưu hành cùng loại của một tổ chức niêm yết; tổng mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 1% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán; tổng dư nợ đối với một loại chứng khoán không được vượt quá 10% vốn chủ sở hữu của công ty; tổng dư nợ cho vay giao dịch mua ký quỹ của một công ty chứng khoán không được vượt quá 100% vốn chủ sở hữu.
Thời hạn cho vay giao dịch mua ký quỹ sẽ do công ty chứng khoán và khách hàng thỏa thuận nhưng không được quá sáu (6) tháng; tùy thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, công ty chứng khoán có thể tiếp tục gia hạn cho vay, nhưng không quá một kỳ 6 tháng tiếp theo.
Lãi suất cho vay giao dịch mua ký quỹ được xác định trên cơ sở thỏa thuận ghi trong hợp đồng giữa công ty chứng khoán và khách hàng, nhưng không vượt quá 1,5 lần lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố gần nhất tính đến thời điểm thỏa thuận. Thời điểm bắt đầu tính lãi suất là thời điểm công ty chứng khoán giải ngân khoản vay cho giao dịch vay mua chứng khoán ký quỹ.
Đối với nhà đầu tư, chỉ được phép sử dụng tiền vay từ công ty chứng khoán để mua chứng khoán trên tài khoản giao dịch mua ký quỹ chứng khoán, không được sử dụng tiền vay vào bất kỳ mục đích nào khác.
Về yêu cầu ký quỹ, dự thảo xác định tỷ lệ ký quỹ là tỷ lệ % giữa khoản tiền khách hàng phải có tại thời điểm thực hiện mua chứng khoán ký quỹ so với khoản tiền vay từ công ty chứng khoán. Căn cứ tình hình thị trường, điều kiện của mình và mức độ tín nhiệm của từng khách hàng, công ty chứng khoán có thể quyết định tỷ lệ ký quỹ đối với từng trường hợp, nhưng không thấp hơn 50% giá trị chứng khoán tại thời điểm mua chứng khoán. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể thay đổi tỷ lệ này tùy theo tình hình của thị trường.
Về yêu cầu thế chấp, tất cả chứng khoán khách hàng mua ký quỹ là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng và phải được giữ tại công ty chứng khoán làm tài sản thế chấp. Đối với chứng khoán được đặt mua trong đợt phát hành mới, chưa được chuyển giao thì mọi hóa đơn thanh toán tiền phải được giữ làm vật thế chấp thay thế cho đến khi chứng khoán được chuyển giao.
Tỷ lệ thế chấp theo dự thảo là tỷ lệ % giữa giá trị tài sản thế chấp của khách hàng tính theo giá thị trường so với khoản tiền vay của công ty chứng khoán. Tỷ lệ này đối với mỗi khách hàng do công ty chứng khoán quyết định nhưng không được thấp hơn 200% tại thời điểm mua chứng khoán. Đối với trường hợp có nhiều giao dịch mua ký quỹ trong cùng một tài khoản, tỷ lệ thế chấp có thế được tính gộp các giao dịch trong tài khoản.
Khi tỷ lệ tài sản thế chấp của khách hàng giảm xuống dưới mức 150%, công ty chứng khoán sẽ ngay lập tức yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp bằng tiền hoặc chứng khoán cùng loại trong vòng 2 ngày làm việc. Giá trị tài sản bổ sung phải đảm bảo sao cho tỷ lệ tài sản thế chấp tối thiểu phải bằng 200%.
Công ty chứng khoán có thể tùy nghi thanh lý chứng khoán trên tài khoản mua ký quỹ của khách hàng và sử dụng tài sản có trên tài khoản của khách hàng để thanh toán cho các khoản khách hàng vay công ty trong các trường hợp khách hàng không thực hiện nộp bổ sung tài sản thế chấp khi đến hạn nộp; khách hàng không thanh toán đúng hạn các khoản lãi suất, tiền hoa hồng môi giới giao dịch, thuế và các khoản khác theo quy định tại hợp đồng.
Một điểm đáng chú ý là dự thảo cũng đưa ra nội dung tạo cơ sở pháp lý cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể tạm ngừng các giao dịch mua ký quỹ như khi xét thấy tình hình kinh tế, xã hội có những biến động bất thường; hoặc trường hợp các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ có mức giá giao dịch giao động quá lớn, có độ tập trung sở hữu quá mức, có khối lượng giao dịch quá bất thường; hay tổng số cổ phiếu, chứng chỉ quỹ cùng loại đang trong tình trạng thế chấp cho giao dịch mua ký quỹ đạt 25% tổng lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ cùng loại đang lưu hành…
Theo văn bản này, các công ty chứng khoán sẽ được phép cho các nhà đầu tư vay vốn để tham gia thị trường, nhưng phải đảm bảo các điều kiện cụ thể.
Theo nội dung dự thảo, giao dịch mua chứng khoán ký quỹ được giải thích là việc khách hàng vay một phần tiền theo tỷ lệ nhất định của công ty chứng khoán để thực hiện mua chứng khoán, đồng thời thế chấp chứng khoán đã mua tại công ty chứng khoán.
Để được thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải đảm bảo loạt điều kiện về vốn chủ sở hữu, về sự tuân thủ các quy định trong hoạt động trước đó, có tỷ lệ an toàn vốn khả dụng không dưới 200% trong 6 tháng liên tục, phải quản lý tách biệt tài sản của khách hàng và chỉ được sử dụng tài sản thuộc sở hữu của chính mình để thực hiện nghiệp vụ này…
Cổ phiếu được giao dịch mua chứng khoán ký quỹ phải là cổ phiếu niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán, có thời gian niêm yết từ 6 tháng trở lên; là cổ phiếu có giá trị sổ sách lớn hơn mệnh giá tính theo báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất và báo cáo tài chính quý gần nhất của các công ty niêm yết; cổ phiếu của công ty niêm yết có thời gian thành lập và hoạt động tối thiểu 5 năm, có vốn điều lệ tối thiểu là 20 tỷ, không có lỗ trong năm hoạt động liền trước, có tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu tại thời điểm cuối năm tối thiểu là 3%; cổ phiếu không thuộc diện bị kiểm soát hoặc dừng giao dịch.
Ngoài ra, công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay giao dịch mua ký quỹ đối với cổ phiếu do chính công ty phát hành; cổ phiếu do chính công ty bảo lành phát hành cho đến hết ba (3) tháng sau khi hoàn tất đợt phát hành; cổ phiếu của công ty sở hữu từ 50% vốn điều lệ của công ty chứng khoán.
Nhà đầu tư tham gia dịch vụ này phải là khách hàng đã có thời gian mở tài khoản giao dịch môi giới tại công ty chứng khoán không dưới 3 tháng và có tổng giá trị giao dịch chứng khoán tối thiểu trước đó không thấp hơn 50% tổng giá trị các khoản vay công ty chứng khoán.
Khi thực hiện các giao dịch ký quỹ, dự thảo đưa ra quy định công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay để mua quá 5% tổng số cổ phiếu lưu hành cùng loại của một tổ chức niêm yết; tổng mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 1% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán; tổng dư nợ đối với một loại chứng khoán không được vượt quá 10% vốn chủ sở hữu của công ty; tổng dư nợ cho vay giao dịch mua ký quỹ của một công ty chứng khoán không được vượt quá 100% vốn chủ sở hữu.
Thời hạn cho vay giao dịch mua ký quỹ sẽ do công ty chứng khoán và khách hàng thỏa thuận nhưng không được quá sáu (6) tháng; tùy thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, công ty chứng khoán có thể tiếp tục gia hạn cho vay, nhưng không quá một kỳ 6 tháng tiếp theo.
Lãi suất cho vay giao dịch mua ký quỹ được xác định trên cơ sở thỏa thuận ghi trong hợp đồng giữa công ty chứng khoán và khách hàng, nhưng không vượt quá 1,5 lần lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố gần nhất tính đến thời điểm thỏa thuận. Thời điểm bắt đầu tính lãi suất là thời điểm công ty chứng khoán giải ngân khoản vay cho giao dịch vay mua chứng khoán ký quỹ.
Đối với nhà đầu tư, chỉ được phép sử dụng tiền vay từ công ty chứng khoán để mua chứng khoán trên tài khoản giao dịch mua ký quỹ chứng khoán, không được sử dụng tiền vay vào bất kỳ mục đích nào khác.
Về yêu cầu ký quỹ, dự thảo xác định tỷ lệ ký quỹ là tỷ lệ % giữa khoản tiền khách hàng phải có tại thời điểm thực hiện mua chứng khoán ký quỹ so với khoản tiền vay từ công ty chứng khoán. Căn cứ tình hình thị trường, điều kiện của mình và mức độ tín nhiệm của từng khách hàng, công ty chứng khoán có thể quyết định tỷ lệ ký quỹ đối với từng trường hợp, nhưng không thấp hơn 50% giá trị chứng khoán tại thời điểm mua chứng khoán. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể thay đổi tỷ lệ này tùy theo tình hình của thị trường.
Về yêu cầu thế chấp, tất cả chứng khoán khách hàng mua ký quỹ là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng và phải được giữ tại công ty chứng khoán làm tài sản thế chấp. Đối với chứng khoán được đặt mua trong đợt phát hành mới, chưa được chuyển giao thì mọi hóa đơn thanh toán tiền phải được giữ làm vật thế chấp thay thế cho đến khi chứng khoán được chuyển giao.
Tỷ lệ thế chấp theo dự thảo là tỷ lệ % giữa giá trị tài sản thế chấp của khách hàng tính theo giá thị trường so với khoản tiền vay của công ty chứng khoán. Tỷ lệ này đối với mỗi khách hàng do công ty chứng khoán quyết định nhưng không được thấp hơn 200% tại thời điểm mua chứng khoán. Đối với trường hợp có nhiều giao dịch mua ký quỹ trong cùng một tài khoản, tỷ lệ thế chấp có thế được tính gộp các giao dịch trong tài khoản.
Khi tỷ lệ tài sản thế chấp của khách hàng giảm xuống dưới mức 150%, công ty chứng khoán sẽ ngay lập tức yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp bằng tiền hoặc chứng khoán cùng loại trong vòng 2 ngày làm việc. Giá trị tài sản bổ sung phải đảm bảo sao cho tỷ lệ tài sản thế chấp tối thiểu phải bằng 200%.
Công ty chứng khoán có thể tùy nghi thanh lý chứng khoán trên tài khoản mua ký quỹ của khách hàng và sử dụng tài sản có trên tài khoản của khách hàng để thanh toán cho các khoản khách hàng vay công ty trong các trường hợp khách hàng không thực hiện nộp bổ sung tài sản thế chấp khi đến hạn nộp; khách hàng không thanh toán đúng hạn các khoản lãi suất, tiền hoa hồng môi giới giao dịch, thuế và các khoản khác theo quy định tại hợp đồng.
Một điểm đáng chú ý là dự thảo cũng đưa ra nội dung tạo cơ sở pháp lý cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể tạm ngừng các giao dịch mua ký quỹ như khi xét thấy tình hình kinh tế, xã hội có những biến động bất thường; hoặc trường hợp các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ có mức giá giao dịch giao động quá lớn, có độ tập trung sở hữu quá mức, có khối lượng giao dịch quá bất thường; hay tổng số cổ phiếu, chứng chỉ quỹ cùng loại đang trong tình trạng thế chấp cho giao dịch mua ký quỹ đạt 25% tổng lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ cùng loại đang lưu hành…