Nông lâm thủy sản xuất siêu hơn 8 tỷ USD
Nhiều mặt hàng nông sản chính có sự suy giảm về khối lượng, giá trị và kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng qua
Trong 11 tháng đầu năm, ngành nông nghiệp cả nước đạt mức xuất siêu trên 8 tỷ USD. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu các nông sản chính trong kỳ giảm trên 11% so với cùng kỳ năm ngoái.
Báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11 ước đạt 2,42 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 11 tháng đầu năm 2013 lên 25,25 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2012. Giá trị nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 17,16 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, mức xuất siêu của ngành nông nghiệp trong 11 tháng đạt 8,34 tỷ USD.
Trong 11 tháng, các mặt hàng nông sản chính chứng kiến giá trị xuất khẩu giảm mạnh, ước đạt 12,05 tỷ USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản 6,11 tỷ USD, tăng 9,1%, giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,12 tỷ USD, tăng 15,8%.
Nhiều mặt hàng nông sản chính có sự suy giảm về khối lượng, giá trị và kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng qua. Trong đó, khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 ước đạt 441 nghìn tấn, với giá trị 209 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 6,29 triệu tấn, và 2,78 tỷ USD, giảm 16,1% về khối lượng và giảm 18.8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá gạo xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm 2013 tăng nhẹ, đạt 439,9 USD/tấn, cao hơn 9 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2012. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Khối lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này trong 10 tháng đầu năm tăng trưởng mạnh, đạt trên 1,92 triệu tấn với giá trị đạt 800,76 triệu USD, chiếm 31,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với cùng kỳ năm ngoái, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tăng lần lượt là 5,1% và 2%.
Về mặt hàng cà phê, khối lượng xuất khẩu cà phê tháng 11 năm 2013 ước đạt 94 nghìn tấn, với giá trị đạt 188 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 11 tháng đầu năm ước đạt 1,18 triệu tấn và 2,51 tỷ USD, giảm 24,4% về khối lượng và giảm 24,8% về giá trị so cùng kỳ năm 2012.
Giá xuất khẩu cà phê 10 tháng đầu năm 2013 đạt 2.138,1 USD/tấn, giảm 0,26% so với cùng kỳ năm 2012. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm với thị phần lần lượt là 13% và 10,8%.
Cao su cũng là mặt hàng giảm khá mạnh về giá trị xuất khẩu trong 11 tháng. Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 11 đạt 120 nghìn tấn với giá trị 279 triệu USD, với ước tính này 11 tháng đầu năm 2013 xuất khẩu cao su đạt 955 nghìn tấn với giá trị đạt 2,24 tỷ USD, tăng 5,4% về khối lượng nhưng giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá cao su xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2013 đạt 2.350,4 USD/tấn, giảm 0,1% so với mức giá 2.352,6 USD/tấn của năm 2012. Trung Quốc mặc dù vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng (chiếm 43,4% tổng giá trị xuất khẩu), nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với năm 2012, giảm 3,9% về khối lượng và giảm 19,7% về giá trị.
Mặt hàng chè giảm cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong 11 tháng. Khối lượng chè xuất khẩu tháng 11 ước đạt 12 nghìn tấn với giá trị đạt 19 triệu USD, đưa tổng lượng chè xuất khẩu 11 tháng đầu năm ước đạt 128 nghìn tấn với giá trị đạt 206 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2012, xuất khẩu chè 11 tháng đầu năm 2013 giảm 5,3% về khối lượng và 0,1% về giá trị.
Giá chè xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm 2013 đạt 1.611,7 USD/tấn, giảm 0,19% so với mức giá trung bình 1.614,8 USD/tấn của năm 2012. Khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan - thị trường lớn nhất của Việt Nam giảm 10,7% về khối lượng và 6,5% về giá trị.
Trái với các mặt hàng kể trên, mặt hàng hạt điều lại có sự gia tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu.Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 11 ước đạt 23 nghìn tấn với giá trị 144 triệu USD, đưa tổng lượng xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 đạt mức 238 nghìn tấn với giá trị 1,49 tỷ USD, tăng 17% về lượng và tăng 10,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Ngoài ra, giá xuất khẩu trung bình của mặt hàng điều cũng tăng. Giá xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm đạt 6.300,2 USD/tấn, tăng 39,7 USD/tấn (khoảng 0,63%) so với mức giá trung bình cùng kỳ năm 2012 (6.260,3 USD/tấn). Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 33,2%, 17,2% và 9,9% tổng giá trị xuất khẩu.
Tiêu cũng là mặt hàng đạt được những kết quả xuất khẩu khá khả quan. Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 11 ước đạt 9 nghìn tấn, với giá trị đạt 59 triệu USD, đưa tổng khối lượng tiêu xuất khẩu 11 tháng lên 131 nghìn tấn với giá trị 874 triệu USD, tăng 18,4% về lượng và 16,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá xuất khẩu trung bình tiêu 10 tháng đầu năm 2013 đạt 6.662 USD/tấn, tăng 7,5 USD/tấn (khoảng 0,11%) so với cùng kỳ năm 2012. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ và Đức - 2 thị trường lớn nhất của Việt Nam với khoảng 30,7% thị phần - có tăng trưởng mạnh với mức tăng lần lượt là 72,9%; 8,6% về khối lượng và tăng 70,9% và 6,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11 ước đạt 2,42 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 11 tháng đầu năm 2013 lên 25,25 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2012. Giá trị nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 17,16 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, mức xuất siêu của ngành nông nghiệp trong 11 tháng đạt 8,34 tỷ USD.
Trong 11 tháng, các mặt hàng nông sản chính chứng kiến giá trị xuất khẩu giảm mạnh, ước đạt 12,05 tỷ USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản 6,11 tỷ USD, tăng 9,1%, giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,12 tỷ USD, tăng 15,8%.
Nhiều mặt hàng nông sản chính có sự suy giảm về khối lượng, giá trị và kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng qua. Trong đó, khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 ước đạt 441 nghìn tấn, với giá trị 209 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 6,29 triệu tấn, và 2,78 tỷ USD, giảm 16,1% về khối lượng và giảm 18.8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá gạo xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm 2013 tăng nhẹ, đạt 439,9 USD/tấn, cao hơn 9 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2012. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Khối lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này trong 10 tháng đầu năm tăng trưởng mạnh, đạt trên 1,92 triệu tấn với giá trị đạt 800,76 triệu USD, chiếm 31,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với cùng kỳ năm ngoái, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tăng lần lượt là 5,1% và 2%.
Về mặt hàng cà phê, khối lượng xuất khẩu cà phê tháng 11 năm 2013 ước đạt 94 nghìn tấn, với giá trị đạt 188 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 11 tháng đầu năm ước đạt 1,18 triệu tấn và 2,51 tỷ USD, giảm 24,4% về khối lượng và giảm 24,8% về giá trị so cùng kỳ năm 2012.
Giá xuất khẩu cà phê 10 tháng đầu năm 2013 đạt 2.138,1 USD/tấn, giảm 0,26% so với cùng kỳ năm 2012. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm với thị phần lần lượt là 13% và 10,8%.
Cao su cũng là mặt hàng giảm khá mạnh về giá trị xuất khẩu trong 11 tháng. Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 11 đạt 120 nghìn tấn với giá trị 279 triệu USD, với ước tính này 11 tháng đầu năm 2013 xuất khẩu cao su đạt 955 nghìn tấn với giá trị đạt 2,24 tỷ USD, tăng 5,4% về khối lượng nhưng giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá cao su xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2013 đạt 2.350,4 USD/tấn, giảm 0,1% so với mức giá 2.352,6 USD/tấn của năm 2012. Trung Quốc mặc dù vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng (chiếm 43,4% tổng giá trị xuất khẩu), nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với năm 2012, giảm 3,9% về khối lượng và giảm 19,7% về giá trị.
Mặt hàng chè giảm cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong 11 tháng. Khối lượng chè xuất khẩu tháng 11 ước đạt 12 nghìn tấn với giá trị đạt 19 triệu USD, đưa tổng lượng chè xuất khẩu 11 tháng đầu năm ước đạt 128 nghìn tấn với giá trị đạt 206 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2012, xuất khẩu chè 11 tháng đầu năm 2013 giảm 5,3% về khối lượng và 0,1% về giá trị.
Giá chè xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm 2013 đạt 1.611,7 USD/tấn, giảm 0,19% so với mức giá trung bình 1.614,8 USD/tấn của năm 2012. Khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan - thị trường lớn nhất của Việt Nam giảm 10,7% về khối lượng và 6,5% về giá trị.
Trái với các mặt hàng kể trên, mặt hàng hạt điều lại có sự gia tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu.Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 11 ước đạt 23 nghìn tấn với giá trị 144 triệu USD, đưa tổng lượng xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 đạt mức 238 nghìn tấn với giá trị 1,49 tỷ USD, tăng 17% về lượng và tăng 10,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Ngoài ra, giá xuất khẩu trung bình của mặt hàng điều cũng tăng. Giá xuất khẩu trung bình 10 tháng đầu năm đạt 6.300,2 USD/tấn, tăng 39,7 USD/tấn (khoảng 0,63%) so với mức giá trung bình cùng kỳ năm 2012 (6.260,3 USD/tấn). Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 33,2%, 17,2% và 9,9% tổng giá trị xuất khẩu.
Tiêu cũng là mặt hàng đạt được những kết quả xuất khẩu khá khả quan. Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 11 ước đạt 9 nghìn tấn, với giá trị đạt 59 triệu USD, đưa tổng khối lượng tiêu xuất khẩu 11 tháng lên 131 nghìn tấn với giá trị 874 triệu USD, tăng 18,4% về lượng và 16,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá xuất khẩu trung bình tiêu 10 tháng đầu năm 2013 đạt 6.662 USD/tấn, tăng 7,5 USD/tấn (khoảng 0,11%) so với cùng kỳ năm 2012. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ và Đức - 2 thị trường lớn nhất của Việt Nam với khoảng 30,7% thị phần - có tăng trưởng mạnh với mức tăng lần lượt là 72,9%; 8,6% về khối lượng và tăng 70,9% và 6,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.