Xu hướng không muốn sinh con đã xuất hiện ở một số đô thị
Phúc Minh
10/07/2024, 17:00
Theo Bộ Y tế, hiện nay, xu hướng không muốn hoặc sinh rất ít con đã xuất hiện ở một số đô thị - nơi có điều kiện kinh tế phát triển. Trong khi đó, tại một số nơi điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mức sinh vẫn cao, thậm chí rất cao. Đây là những thực trạng đáng lo ngại...
Tiêm chủng cho trẻ em. Ảnh: Tuấn Dũng.
Thực tế trên được Bộ Y tế nêu trong báo cáo đánh giá tác động chính sách Dự án Luật Dân số đang được Bộ này xây dựng.
CÒN CHÊNH LỆCH MỨC SINH ĐÁNG KỂ GIỮA CÁC VÙNG
Trong báo cáo đánh giá tác động, Bộ Y tế cho biết trong năm 2006, nước ta đã đạt mức sinh thay thế và giữ được mức sinh xung quanh mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,09 con/phụ nữ năm 2006; 2,01 con/phụ nữ năm 2022; năm 2023 ước tính là 1,96 con/phụ nữ.
Cùng với đó, đã duy trì mức độ gia tăng dân số phù hợp hằng năm, bình quân giai đoạn 2017-2020 là 1,07%; năm 2022 là 0,98%, năm 2023 là 0,84%. Quy mô dân số đạt hơn 100 triệu người.
Mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan toả, thấm sâu trong toàn xã hội. Kết quả công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình đã làm tăng GDP bình quân đầu người khoảng 2%/năm, góp phần đáng kể vào việc tăng thu nhập bình quân đầu người, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tình trạng đói nghèo, tăng cường bình đẳng giới...
Tuy nhiên, hiện mức sinh còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng, sự chênh lệch này chưa được thu hẹp rõ rệt.
Bộ Y tế đánh giá, mặc dù nước ta đã đạt mức sinh thay thế, và giữ được mức sinh xung quanh mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc từ năm 2006, nhưng chưa thật sự vững chắc.
Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng tỷ suất sinh năm 2022 đạt 2,01 con/phụ nữ; năm 2023 ước tính là 1,96 con/phụ nữ, giảm thấp nhất trong 12 năm trở lại đây, và được dự báo là sẽ tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.
Đặc biệt, mức sinh còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng, sự chênh lệch này chưa được thu hẹp rõ rệt. Khu vực kinh tế, xã hội nhiều khó khăn có mức sinh cao, thậm chí có nơi rất cao. Trong khi ở một số vùng đô thị, kinh tế, xã hội phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế.
“Xu hướng không muốn hoặc sinh rất ít con đã xuất hiện ở một số đô thị - nơi có điều kiện kinh tế phát triển. Trong khi đó, tại một số nơi điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mức sinh vẫn cao, thậm chí rất cao, trên 2,5 con”, Bộ Y tế cho hay.
Hiện nay có 21 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp, thậm chí một số tỉnh mức sinh đã rất thấp, tập trung ở vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, và một số tỉnh Duyên hải miền Trung, có quy mô dân số là 37,9 triệu người, chiếm khoảng 39,4% dân số cả nước.
Theo Bộ Y tế, trong điều kiện kinh tế tiếp tục tăng trưởng, đô thị hóa ngày càng nhanh, sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, xu hướng này càng được củng cố, lan rộng. Đặc biệt, mức sinh thấp kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số nhanh, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội...
Mức sinh sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Ảnh minh họa: N.Dương.
Mặt khác, kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước trên thế giới, đã thành công trong việc giảm sinh, nhưng chưa có nước nào thành công trong việc đưa mức sinh rất thấp về mức thay thế, cho dù có nhiều chính sách khuyến sinh với nguồn lực đầu tư lớn.
CÁC CÁ NHÂN ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH SỐ CON SINH RA
Bên cạnh đó, xu hướng mức sinh tăng cao trở lại sau khi đạt mức thay thế đã xuất hiện ở nhiều tỉnh tại vùng Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ.
Hiện có 33 tỉnh có mức sinh cao với quy mô dân số là 39,8 triệu người, chiếm 41,4% dân số cả nước, nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội còn rất khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
Mức sinh cao đã tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục…, làm tăng khoảng cách phát triển và chất lượng cuộc sống của các địa phương này so với các các địa phương, khu vực khác.
Hơn nữa, chính sách hạn chế mức sinh kéo dài giải quyết được vấn đề quy mô nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy. Trong đó phải kể đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng trầm trọng; chất lượng dân số bị ảnh hưởng, do những người chưa có điều kiện nuôi dạy con tốt còn sinh nhiều con.
Ngược lại, nếu không khống chế được quy mô dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đầu tư cho đảm bảo an sinh xã hội, tăng thu nhập bình quân trên đầu người nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Bộ Y tế cho rằng khi tăng tốc độ sinh phải đảm bảo điều kiện nuôi dạy đứa trẻ cho đến khi đủ độ tuổi lao động. Theo các nghiên cứu trên thế giới, dân số tăng 1% thì GDP phải tăng 4% mới đảm bảo mức sống, và các dịch vụ xã hội, vì thời gian từ khi mang thai cho tới khi tham gia thị trường lao động trung bình là 17,5 năm.
Với rất nhiều thực tế được đề cập như trên, trong hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Dân số, Bộ Y tế tiếp tục đề xuất các chính sách duy trì mức sinh thay thế.
Trong đó, Bộ đề xuất các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định tự nguyện, bình đẳng và có trách nhiệm trong việc sinh con, thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh, phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân.
Họ cũng sẽ được tư vấn, cung cấp thông tin, tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình.
Bên cạnh đó, các cặp vợ chồng, cá nhân có nghĩa vụ bảo đảm trách nhiệm chăm sóc và nuôi, dạy con tốt; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,văn minh; bình đẳng trong thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp phòng, tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS.
Tuy nhiên để thực hiện giải pháp này, Bộ Y tế cho rằng Nhà nước cần bảo đảm ngân sách để tuyên truyền vận động, thực hiện hỗ trợ, khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần cho các đối tượng thực hiện chính sách.
Đồng thời, thực hiện các biện pháp khắc phục trước và sau khi ban hành Luật. Việc này để tránh lợi dụng quy định quyền tự quyết định về số con của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân để vụ lợi, thực hiện trái với chính sách của Nhà nước về công tác dân số.
Phấn đấu đến năm 2025, đạt 95% dân số tham gia bảo hiểm y tế
07:07, 17/04/2024
Mức sinh thấp sẽ dẫn tới thiếu hụt nguồn lao động, dân số già, ảnh hưởng xấu tới an sinh xã hội
15:25, 10/11/2023
Bộ Y tế: Bố trí công việc phù hợp, bảo đảm chính sách cho viên chức y tế, dân số
Ra mắt Trang thông tin điện tử "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội XIV"
Chiều 12/9, tại Hà Nội, Báo Nhân Dân trang trọng tổ chức lễ ra mắt Trang thông tin điện tử "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội XIV" tại địa chỉ https://daihoidangtoanquoc.vn. Tổng Bí thư Tô Lâm dự và phát biểu chỉ đạo.
Thêm 15 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp quốc gia
Cả nước mới có thêm 15 di tích, danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia. Trong đó, Ninh Bình là địa phương có số lượng nhiều nhất với 3 di tích, quần thể; Thành phố Huế và Quảng Trị cùng ghi nhận mỗi nơi có 2 di tích được công nhận…
Quy định mới về thu và sử dụng kinh phí, đoàn phí công đoàn
Công đoàn cơ sở sẽ được sử dụng 75% tổng số thu kinh phí công đoàn, theo hướng dẫn mới của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam...
Các trường hợp vẫn được bảo hiểm y tế chi trả dù chưa có thẻ
Theo quy định mới có hiệu lực từ đầu tháng 7 năm nay, có 5 trường hợp người tham gia bảo hiểm y tế dù chưa có thẻ, hoặc chưa xuất trình thẻ, nhưng khi khám chữa bệnh vẫn được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả chi phí khám chữa bệnh...
Chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tăng cao tại nhiều địa phương
8 tháng năm 2025, nhiều địa phương có sự gia tăng chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ở mức cao, như TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: